TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 201/2018/HS-ST NGÀY 20/12/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 163/2018/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Minh L (tên gọi khác: Tý), sinh năm 1991 tại Bình Dương; nơi cư trú: Tổ 8, khu phố T, phường Th, thị xã U, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Kim L, sinh năm 1971; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 22- 12-2011, bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại
Bản án số 140/2011/HSST và ngày 13-6-2013, bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 72/2013/HSST; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27-7- 2018 cho đến nay; có mặt.
- Bị hại: Ông Mai Vĩnh P, sinh năm 1972; địa chỉ: Khu phố C, phường P, thị xã U, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Quách Thanh H, sinh năm 1988; địa chỉ: Ấp B, xã I, huyện Ch, tỉnh An Giang; vắng mặt.
- Người làm chứng: Ông Mai Vĩnh Ph; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ ngày 27-7-2018, Nguyễn Minh L rủ Quách Thanh H đi đến nhà của Đ (không rõ nhân thân, địa chỉ) là bạn của L ở phường P, thị xã U để lấy tiền Đ đã mượn của L trước đó, H đồng ý. Khi đi đến đoạn đường thuộc khu phố C phường P, thị xã U, tỉnh Bình Dương, L nhìn thấy phía bên kia đường ông Mai Vĩnh P đang nằm ngủ trên võng phía trước nhà cách lề đường ĐT 747 khoảng 10 mét, gần bên ông P có ổ điện cắm 02 dây sạc điện thoại. L nói với H “quay lại coi có điện thoại không” thì H đồng ý, khi cả hai cùng quay lại phía trước nhà ông P để xem có tài sản gì lấy trộm được không thì bị chó sủa nhiều nên H nói với L “thôi bỏ đi” thì L đồng ý, cả hai tiếp tục đi bộ về hướng cảng Thạnh Phước. Khi đi cách nhà ông P được khoảng 20 mét, L nói với H để L đi mồi thuốc rồi ra nhưng không nói rõ đi đâu, nghe vậy H đứng chờ bên đường. L quay lại vị trí ông P đang nằm võng và lấy 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A6+ màu xanh đen và đi ra chỗ H đang đợi. Khi thấy L cầm chiếc điện thoại di động trên tay, H có hỏi “điện thoại gì vậy” nhưng L không trả lời, lúc này vừa đi L vừa dùng tay tháo sim trong điện thoại ra thì làm rơi mất 01 sim điện thoại trên đường. Ông Mai Vĩnh Ph là em ruột của ông P đi công việc về, nhìn thấy L và H đang đi bộ trên đường ĐT747 gần phía trước nhà ông P có biểu hiện nghi vấn nên ông Ph vào nhà gọi ông P dậy kiểm tra có bị mất tài sản gì không, ông P kiểm tra phát hiện bị mất 01 điện thoại di động nên ông Ph điều khiển xe mô tô chở ông P đuổi theo L và H. Khi đến khu vực gần trường tiểu học Ph thì ông P thấy L đang cầm trên tay chiếc điện thoại di động của mình đi bộ cùng với H. Ông P và ông Ph đến Công an phường Thạnh Phước trình báo sự việc. Sau khi tiếp nhận nguồn tin, Công an phường Thạnh Phước tổ chức lực lượng truy tìm và phát hiện L và H. Công an phường Thạnh Phước tiến hành mời L và H về trụ sở làm việc và L đã khai nhận hành vi phạm chiếm đoạt điện thoại của ông P, quá trình điều tra L khai nhận việc L thực hiện hành chiếm đoạt điện thoại của ông P, H không biết. Công phường Thạnh Phước đã thu giữ vật chứng gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A6+; 02 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel; 02 quần jean màu đen; 02 áo khoát màu đen; 01 áo sơ mi dài tay, màu xanh nhạt; 01 áo sơ mi dài tay màu vàng.
Công phường Thạnh Phước tiến hành lập hồ sơ ban đầu và chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.
Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 188/KLTS- TTHS ngày 02-8-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Tân Uyên, kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A6+đã qua sử dụng, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Hội đồng định giá nêu trên.
Cáo trạng số 163/CT-VKS-TU ngày 10-10-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Nguyễn Minh L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Minh L mức hình phạt từ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, tuyên trả lại cho bị cáo L và ông H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, Model Izi 100; 01 áo sơ mi màu xanh, 01 quần Jean màu đen; 01 áo sơ mi màu vàng, 01 áo khoát hiệu Pila; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, Model A 130. Tịch thu tiêu hủy 01 quần Jean hiệu Jeans-Fashion và 01 áo khoát màu đen.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh L đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố đối với bị cáo.
Bị hại xác định đã nhận lại tài sản mà bị cáo chiếm đoạt nên không có yêu cầu gì khác, về trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo xin lỗi bị hại, bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình mong Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt phù hợp cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Minh L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo đã khai báo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị cáo trước sau đều thống nhất với nhau và phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Ngày 27-7-2018, tại khu phố Cây Da, phường Thạnh Phước, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Minh L đã lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A6+ của ông Mai Vĩnh P, giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.500.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì tư lợi nên bị cáo vẫn cố ý phạm tội và mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người bị hại. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.
[4] Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát thị xã Tân Uyên truy tố đối với bị cáo Nguyễn Minh L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[5] Hội đồng xét xử quyết định hình phạt đối với bị cáo tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
[6] Về nhân thân: Bị cáo từng 02 lần bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) Tân Uyên đưa ra xét xử về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và tội “Trộm cắp tài sản”, tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nên khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc đối với nhân thân của bị cáo.
[7] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[8] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi và giao trả cho bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[8] Mức hình phạt đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
[9] Đối với Quách Thanh H, quá trình điều tra xác định khi bị cáo L quay lại thực hiện hành vi chiếm đoạt điện thoại của ông P, bị cáo L không nói với H và cũng không bàn bạc hay thoả thuận gì, sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, L cũng không cho H biết và H cũng không biết việc bị cáo chiếm đoạt tài sản của bị hại. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự đối với H là phù hợp.
[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[11] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, Model Izi 100; 01 quần Jean màu đen; 01 áo sơ mi màu xanh, 01 áo sơ mi màu vàng, 01 áo khoát hiệu Pila; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, Model A 130 là tài sản của bị cáo L và ông H không liên quan đến hành vi phạm tội nên giao trả lại cho bị cáo và ông H. Đối với 01 quần Jean nhãn hiệu Jeans-Fashion và 01 áo khoát màu đen thu thu giữ của bị cáo L, không còn giá trị sử dụng và bị cáo không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.
[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, Điều 46, 47, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 136, Điều 260, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh L 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27-7-2018.
2. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra.
3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
Tịch thu tiêu hủy 01 quần Jean màu đen nhãn hiệu Jeans-Fashion và 01 áo khoát màu đen có nhãn hiệu TeBu.
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Minh L 01 điện thoại di động Masstel, Model A130, Emei 301014160313414.
Trả lại cho Quách Thanh H 01 điện thoại di động Masstel, Model Izi100, Emei 351670092625545; 01 áo sơ mi màu xanh; 01 áo sơ mi màu vàng; 01 quần Jean dài màu đen và 01 áo khoát màu đen hiệu Pila. (Thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11-10-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương)
4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh L phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 201/2018/HS-ST ngày 20/12/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 201/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/12/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về