TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 201/2018/HS-ST NGÀY 16/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 207/2018/TLST- HS ngày 29 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 217/2018/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Hoàng Tuấn A, sinh ngày 30 tháng 6 năm 1993 tại Lạng Sơn.
Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 47, đường N, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở: Số 43, đường P, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn S và bà Lăng Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị bắt tạm giữ ngày 25/7/2018, tạm giam ngày 28/7/2018 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Bị hại: Ông Hoàng T, trú tại: Số 43, đường P, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Tuấn A là cháu nội và ở cùng nhà với ông Hoàng T tại số 43, đường P, phường C, thành phố L. Do ham chơi game đánh bạc trực tuyến trên mạng (trò chơi Go win) và không có tiền chơi, nên trong khoảng thời gian từ ngày 11/7/2018 đến ngày 19/7/208, Hoàng Tuấn A đã nhỉều lần lợi dụng lúc ông Hoàng T đi tập thể dục, lén lút trèo qua ô thoáng vào phòng ngủ của ông Hoàng T lục tìm chìa khóa két và chìa khóa hộp sắt nhỏ đựng tiền để trong két rồi mở lấy trộm tiền. Cụ thể:
- Khoảng 09 giờ ngày 11/7/2018, Hoàng Tuấn A trèo vào phòng ngủ của ông Hoàng T, mở tủ quần áo lục tìm chìa khóa két sắt ông Hoàng T để trong túi áo khoác rồi mở két thấy có một chiếc hộp sẳt bên trong đựng tiền. Hoàng Tuấn A lấy 50.000.000 đồng trong hộp sắt rồi ra cửa hàng VIETTEL, số 25 đường L, phường V, thành phố L mua một điện thoại hiệu VIVO V9 giá 7.990.000 đồng. Tại đây, Hoàng Tuấn A sử dụng dịch vụ chuyển tiền của cửa hàng Viettel chuyển 30.000.000 đồng vào tài khoản số 19031028365555 tại Ngân hàng Techcombank chủ tài khoản mang tên Nguyễn Việt L để mua tiền ảo chơi đánh bạc “Gowin” trên mạng, số tiền còn lại Hoàng Tuấn A đã tiêu sài hết.
- Ngày 16 và 17/7/2018, cũng với cách thức như trên Hoàng Tuấn A 02 lần trèo vào phòng ngủ của ông Hoàng T lục tìm chìa khóa mở két lấy tổng số tiền 270.000.000 đồng rồi đến ngân hàng Vietcombank - Chi nhánh Lạng Sơn ở đường L, phường H, thành phố L chuyển 260.000.000 đồng vào tài khoản số 0691000402207 tại Ngân hàng Vietcombank, chủ tài khoản mang tên Nguyễn Thị Kim C để nạp tiền vào chơi đánh bạc “Gowin” trên mạng, số tiền còn lại Hoàng Tuấn A đã tiêu sài hết.
- Ngày 18/7/2018, Hoàng Tuấn A trèo vào phòng ngủ của ông Hoàng T lấy 100.000.000 đồng rồi đến cửa hàng Viettel số 279, đường T, phường H, thành phố L chuyển 86.000.000 đồng vào tài khoản số 19031028365555 tại Ngân hàng Techcombank, chủ tài khoản mang tên Nguyễn Việt L để nạp tiền vào chơi đánh bạc “Gowin” trên mạng, số tiền còn lại Hoàng Tuấn A đã tiêu sài hết.
- Ngày 19/7/2018, Hoàng Tuấn A tiếp tục trèo vào phòng ngủ của ông Hoàng T lấy 50.000.000 đồng sau đó đi xuống thành phố Hà Nội và tiêu sài hết.
Đối với các đối tượng Lê Việt A, Nguyễn Việt L, Nguyễn Thị Kim C: Cơ quan điều tra đã tổ chức xác minh, xác định Nguyễn Việt L, sinh ngày 24/3/1988, đăng ký hộ khẩu thường trú: số 25A, ngõ 1, đường N, phường Y, quận H, thành phố Hà Nội; Nguyễn Thị Kim C, sinh ngày 08/01/1971, đăng ký hộ khẩu thường trú: số 54, phố H, phường Y, quận H, thành phố Hà Nội. Do Nguyễn Việt L và Nguyễn Thị Kim C vắng mặt tại địa phương, chưa xác định được đang ở đâu, Cơ quan đỉều tra không làm rõ được hành vì liên quan của Nguyễn Việt L và Nguyễn Thị Kim C để xử lý. Mặt khác quá trình điều tra, Hoàng Tuấn A khai mỗi khi giao dịch để nạp tiền vào game “Gowin” chơi bạc thì Hoàng Tuấn A điện thoại liên lạc với người có tên Lê Việt A quen qua Facebook rồi Lê Việt A hướng dẫn địa chỉ chuyển tiền; sau khi đã chuyển tiền, Lê Việt A đổi chuyển tiền ảo vào tài khoản Game của Hoàng Tuấn A để Hoàng Tuấn A chơi bạc, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không xác định được lai lịch của Lê Việt A để xem xét xử lý trong vụ án này.
Tại bản Cáo trạng số 202/CT-VKS ngày 29 tháng 10 năm 2018, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Tuấn A về tội Trộm cắp tài sản theo theo điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Tuấn A đã khai nhận: Bản thân bị cáo ham chơi đánh bạc trên mạng và không có tiền chơi nên nảy sinh ý định trộm cắp tiền của ông Hoàng T để chơi bạc. Do sống cùng nhà với ông Hoàng T, phòng ngủ của bị cáo đối diện phòng ngủ của ông Hoàng T nên biết được vị trí đặt két sắt và quy luật đi lại, sinh hoạt của ông Hoàng T, vì vậy trong khoảng thời gian từ ngày 11/7/2018 đến ngày 19/7/208, bị cáo lợi dụng lúc ông Hoàng T đi tập thể dục trèo vào phòng ngủ thực hiện 05 lần trộm tiền của ông Hoàng T, tổng cộng 470.000.000 đồng. Chỉ một mình bị cáo thực hiện việc trộm cắp, không có ai cùng tham gia, số tiền trộm cắp được bị cáo dùng chơi bạc trên mạng và tiêu sài hết. Trong thời gian tạm giam, bị cáo đã tác động với gia đình nên gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền do bị cáo chiếm đoạt cho ông Hoàng T.
Bị hại ông Hoàng T vắng mặt tại phiên tòa, trong đơn xin xét xử vắng mặt thể hiện bị hại đã được gia đình bị cáo bồi thường toàn bộ số tiền 470.000.000 đồng do bị cáo trộm cắp; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo, rút phần truy tố về áp dụng tình tiết tăng nặng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Tuấn A phạm tội Trộm cắp tài sản.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Hoàng Tuấn A từ 05 đến 06 năm tù.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp và không có tài sản để đảm bảo thi hành án.
Về bồi thường thiệt hại: Xác nhận bị hại Hoàng T đã được bồi thường toàn bộ số tiền do bị cáo chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu VIVO đã thu giữ vì đây là công cụ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai của bị cáo Hoàng Tuấn A tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại
Cơ quan điều tra, phù hợp lời khai bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có [trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định: Từ ngày 11/7/2018 đến ngày 19/7/208, bị cáo Hoàng Tuấn A lợi dụng lúc ông Hoàng T đi tập thể dục lén lút trèo qua ô thoáng vào phòng ngủ của ông Hoàng T thực hiện 05 lần trộm cắp tiền trong két sắt của ông Hoàng T, tổng cộng 470.000.000 đồng. Số tiền trộm cắp được, bị cáo sử dụng vào đánh bạc trên mạng và tiêu sài cá nhân hết. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hoàng Tuấn A đã phạm tội Trộm cắp tài sản quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 202/CT-VKS ngày 29 tháng 10 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ; gây dư luận bất bình trong xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện tội phạm bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật. Nhưng do lười lao động, muốn có tiền tiêu sài bằng cách chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[4] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, cần xem xét đến đặc điểm về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng: Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải; đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; vì vậy bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm b, 02 tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s và 01 tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo hưởng mức án dưới khung hình phạt đã truy tố cũng đảm bảo hiệu quả của mục đích giáo dục và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Điều này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, nhằm tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa sai lầm, sớm trở lại hòa nhập cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội.
[7] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 31/7/2018 xác định bị cáo không có nghề nghiệp và không có tài sản để đảm bảo thi hành án, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
[8] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Xác nhận bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại Hoàng T số tiền 470.000.000 đồng, bị hại không có yêu cầu gì khác.
[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO đã thu giữ, đây là phương tiện bị cáo đã mua và dùng để tham gia đánh bạc trên mạng, cần tịch thu hóa giá sung Ngân sách Nhà nước.
[10] Đối với chiếc điện thoại di động hỉệu IPHONE X, màu trắng và thẻ ATM (trên thẻ có dẫy số 9704222047950639 và in nổi tên HOANG THANH T). Quá trình điều tra đã xác định đây là tài sản của anh Hoàng Thanh T, trú tại ngõ 181, đường V, khối Đ, phường C, thành phố L là em họ của Hoàng Tuấn A. Ngày 24/7/2018 Hoàng Thanh T cho Hoàng Tuấn A mượn để sử dụng và Hoàng Thanh T không biết về việc Hoàng Tuấn A đã lấy trộm tiền của ông Hoàng T. Cơ quan điều tra đã trả điện thoại và thẻ ATM trên cho anh Hoàng Thanh T là có căn cứ.
[11] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[12] Xét lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và các vấn đề khác đề nghị khi giải quyết vụ án là có căn cứ. Đối với việc rút phần đề nghị áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo đã thực hiện 05 lần trộm cắp với số tiền 470.000.000 đồng, đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; tuy nhiên đây là tình tiết định khung mà Viện kiểm sát áp dụng để truy tố bị cáo theo điểm đ khoản 3 Điều 173 của bộ luật hình sự, do vậy việc rút đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[13] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 173; Điều 38; Điều 54; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Tuấn A phạm tội Trộm cắp tài sản.
2. Về hình phạt: Xử phạt Hoàng Tuấn A 03 (ba) năm tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 25/7/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
3. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Xác nhận bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại Hoàng T số tiền 470.000.000 đồng (bốn trăm bẩy mươi triệu đồng), bị hại không có yêu cầu gì khác.
4. Về xử lý vật chứng: Tịch thu hóa giá sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu VIVO, màu đen, đã qua sử dụng, có số IMEI: 868490036494239.
(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn được mô tả chi tiết theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24 tháng 10 năm 2018).
5. Về án phí: Bị cáo Hoàng Tuấn A phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước.
6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 201/2018/HS-ST ngày 16/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 201/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về