Bản án 200/2020/HSST ngày 09/12/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 200/2020/HSST NGÀY 09/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Vào các ngày 07 và 09 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 200/2019/HSST ngày 09/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 195/2020/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2020/HSST – QĐ ngày 26 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vũ Duy K (tức D), sinh năm 1990 tại KX, Thái Bình. Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn ĐC, xã QT, huyện KX, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông: Vũ Văn K1 và bà Nguyễn Thị L, vợ là Lê Thị T, có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2016; TATS: Theo Danh chỉ bản 398 của Công an huyện Đông Anh lập ngày 24/7/2020 và Trích lục tiền án, tiền sự số 2751698/PV06 ngày 12/8/2020 thể hiện bị cáo không có tiền án, tiền sự; Nhân thân không có tiền án, tiền sự đã được xoá.

Tạm giữ từ ngày 23/7/2020 đến ngày 26/7/2020. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Vũ Văn T, sinh năm 1990 tại KX, Thái Bình. Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn VL, xã VL, huyện Đ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Vũ Quang L và bà Nguyễn Thị Qt, vợ là Lê Thị Mai H, có 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2020; TATS: Theo Danh chỉ bản 399 của Công an huyện Đông Anh lập ngày 24/7/2020 và Trích lục tiền án, tiền sự số 2766033/PV06 ngày 18/8/2020 thể hiện bị cáo không có tiền án, tiền sự; Nhân thân không có tiền án, tiền sự đã được xoá.

Tạm giữ từ ngày 23/7/2020 đến ngày 26/7/2020. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

3. Họ và tên: Phùng Văn L, sinh năm 1990 tại BV, Hà Nội. Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn TX, xã VT, huyện BV, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Phùng Văn L và bà Nguyễn Thị N, vợ Tạ Thị L; TATS: Theo Danh chỉ bản 400 của Công an huyện Đông Anh lập ngày 24/7/2020 và Trích lục tiền án, tiền sự số 2770277/PV06 ngày 20/8/2020 thể hiện bị cáo không có tiền án, tiền sự; Nhân thân có 01 tiền án: Ngày 27/12/2007, Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Hà Tây xử phạt 16 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng; có 01 tiền sự: Ngày 12/5/2015, Công an huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau.

Tạm giữ từ ngày 23/7/2020 đến ngày 26/7/2020. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

4. Họ và tên: Lê Tuyền P, sinh năm 1992 tại CK, Phú Thọ. Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu ĐK, xã TK, huyện CK, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Lê Viết C (đã chết) và bà Hoàng Thị Đ, vợ là Nguyễn Thị T, có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2019; TATS: Theo Danh chỉ bản 401 của Công an huyện Đông Anh lập ngày 24/7/2020 và Trích lục tiền án, tiền sự số 2751750/PV06 ngày 12/8/2020 thể hiện bị cáo không có tiền án, tiền sự; Nhân thân không có tiền án, tiền sự đã được xoá.

Tạm giữ từ ngày 23/7/2020 đến ngày 26/7/2020. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

5. Họ và tên: Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1992 tại Đ, Hà Nội. Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã KN, huyện Đ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông: Nguyễn Đức T (đã chết) và bà Dương Thị V, vợ là Nguyễn Thị Thanh L, có 01 con, sinh năm 2015; TATS: Theo Danh chỉ bản 402 của Công an huyện Đông Anh lập ngày 24/7/2020 và Trích lục tiền án, tiền sự số 2766019/PV06 ngày 18/8/2020 thể hiện bị cáo không có, tiền sự; tiền án; Nhân thân không có tiền án, tiền sự đã được xoá.

Tạm giữ từ ngày 23/7/2020 đến ngày 26/7/2020. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19h30’ ngày 23/7/2020, Tổ công tác Công an xã KC, huyện Đ kiểm tra, phát hiện bắt quả tang tại quán bi-a Club xx thuộc Khu chung cư, thôn B, KC, Đ, Hà Nội có Vũ Duy K, Vũ Văn T, Phùng Văn L, Lê Tuyền P và Nguyễn Tuấn A đang ngồi tại sàn nhà đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức chơi “sâm”, tại đám bạc còn có anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Xóm B, KN, Đ, Hà Nội, ngồi xem, không tham gia đánh bạc. Tổ Công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ trên chiếu bạc 11.250.000 đồng (Mười một triệu, hai trăm năm mươi nghìn đồng); 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân. Tổ Công tác đã đưa các đối tượng cùng tang vật về trụ sở để làm việc. Ngoài ra còn thu giữ:

- Của Vũ Duy K: 01 điện thoại di động Samsung A9, vỏ màu đen, lắp sim số thuê bao 098542xxxx.

- Của Vũ Văn T: 01 điện thoại di động Samsung J7 Pro, vỏ màu đen, lắp sim số thuê bao 036534xxxx.

- Của Phùng Văn L: 01 điện thoại di động Nokia 105, vỏ màu đen, lắp sim số thuê bao 098984xxxx.

- Của Nguyễn Tuấn A: 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro, vỏ màu xanh lục, lắp sim số thuê bao 097770xxxx.

- Của Lê Tuyền P: 01 điện thoại di động Realme 3 Pro, vỏ màu tím đen, lắp sim số thuê bao 086653xxxx.

Tại Cơ quan điều tra, Vũ Duy K, Vũ Văn T, Phùng Văn L, Nguyễn Tuấn A và Lê Tuyền P khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Ngày 23/7/2020, anh Nguyễn Đình T, sinh năm 1987; Hộ khẩu thường trú: Thôn 1, CM, ĐH, Phú Thọ, chủ quán Bi-a Club xx thuộc Khu chung cư, Thôn B, KC, Đ về quê tại Phú Thọ. Anh T nhờ Vũ Duy K trông coi quán Bi-a Club xx hộ anh T.

Khong 16h30’ ngày 23/7/2020, sau khi cùng nhau uống bia tại quán bia HTxx thuộc Thôn B, KC, Đ, Hà Nội, Vũ Duy K, Vũ Văn Thi, Phùng Văn Lượng, Lê Tuyền Phong và Nguyễn Tuấn Anh đi đến quán bi-a Club xx nơi Khương được nhờ trông coi và rủ nhau đánh bạc bằng hình thức đánh “Sâm” được thua bằng tiền. Khi đó, có một nam thanh niên (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là khách chơi bi-a trong quán đến xin đánh bạc cùng, do hình thức đánh “sâm” chỉ được tối đa 05 người chơi cùng một lúc nên Lê Tuyền P đứng dậy không tham gia đánh bạc. K lấy bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân tại quán, rồi cùng Vũ Văn T, Phùng Văn L, Nguyễn Tuấn A và người nam thanh niên lạ mặt đánh bạc tại sàn của quán. Tất cả ngồi thành vòng tròn tính từ Vũ Duy K theo chiều từ trái qua phải lần lượt là Vũ Văn T, Phùng Văn L, rồi đến nam thanh niên lạ mặt cuối cùng là Nguyễn Tuấn A. Đến khoảng 17h00’ cùng ngày, nam thanh niên lạ mặt đứng dậy ra về lý do đang hòa tiền và có việc riêng nên không tiếp tục đánh bạc. Liền ngay sau đó, Lê Tuyền P ngồi đánh bạc thay vị trí của người nam thanh niên đã ra về, đến khoảng 19h30’ cùng ngày thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.

Hình thức đánh bạc như sau: Các con bạc sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 cây, mỗi ván con bạc sẽ được chia 10 lá bài, mỗi “lá bài” tương ứng 10.000 đồng. Khi con bạc đầu tiên đánh một quân bài hoặc một bộ bài (gồm: bộ hai quân bài cùng số gọi là Đôi; bộ ba quân bài cùng số gọi là Sám; bộ gồm ba quân bài trở lên, các quân bài có thứ tự liên tiếp gọi là Sảnh) thì theo chiều ngược kim đồng hồ các con bạc khác sẽ lần lượt chặn bài con bạc đánh trước bằng một quân bài hoặc một bộ bài lớn hơn mà con bạc trước đã đánh. Đôi chặn đôi, sám chặn sám, sảnh chặn sảnh (sảnh phải lớn hơn và có số quân bài bằng sảnh của con bạc đánh trước). Giá trị các quân bài được tính từ quân 3 đến quân 2, trong đó 3 là quân bé nhất, 2 là quân lớn nhất). Con bạc nào có tứ quý (bộ bốn lá bài cùng số) chặn được bài con bạc nào có quân 2. Con bạc nào đánh chỉ còn 01 quân bài trên tay thì phải báo cho các con bạc khác biết. Con bạc nào trong ván bài không đánh được quân bài nào thì phải trả cho con bạc thắng ván bài đó 200.000 đồng (gọi là “cháy”). Con bạc nào đánh một quân bài hoặc một bộ bài mà không có con bạc nào chặn được thì sẽ thắng và giành được cái cho lượt đi kế tiếp. Sau mỗi ván bài, con bạc thắng sẽ tính số lá bài còn lại của những con bạc thua để thanh toán tiền. Trong một ván bài con bạc nào cũng có thể báo “Sâm” (tức là cảm thấy bài của mình có thể về nhất và không ai có thể chặn được) để giành quyền ưu tiên đánh trước. Sau khi giành được cái, con bạc báo “sâm” sẽ đánh lần lượt bài của mình xuống. Nếu “sâm” thành công sẽ được tính là về nhất và được hưởng từ các con bạc khác mỗi con bạc 300.000 đồng. Các trường hợp báo “sâm” như sau được gọi là “ăn trắng”: Sảnh 10 lá (gọi là sâm rồng); tứ quý 2; cả 10 lá bài cùng màu, 5 đôi.

Về số tiền sử dụng đánh bạc các con bạc khai nhận: Vũ Duy K mang theo 1.600.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt đang thắng 440.000 đồng, vứt dưới chiếu bị tạm giữ;

Vũ Văn T mang theo 2.000.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt quả tang đang thắng 650.000 đồng vứt dưới chiếu bị tạm giữ;

Phùng Văn L mang theo 1.500.000 đồng, khi bị bắt quả tang thua 480.000 đồng, vứt dưới chiếu bị tạm giữ;

Lê Tuyền P mang theo 1.000.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt quả tang đang thắng 4.520.000 đồng, vứt tiền dưới chiếu bị tạm giữ.

Nguyễn Tuấn A mang theo 4.000.000 đồng, khi bị bắt quả tang thua 3.980.000 đồng, vứt dưới chiếu bị tạm giữ;

Tổng số tiền thu dưới chiếu bạc các con bạc khai dùng để đánh bạc là 11.250.000 đồng. Do vậy đủ cơ sở để kết luận tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 11.250.000 đồng.

Đối với nam thanh niên cùng đánh bạc rồi bỏ ra về trước khi bị bắt quả tang, các con bạc trình bày không quen biết, không nhớ rõ đặc điểm nhận dạng và không rõ nhân thân người này, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ.

Đối với anh Nguyễn Văn T có mặt tại đám bạc, không tham gia đánh bạc, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

Đối với anh Nguyễn Đình T, tài liệu điều tra xác định anh T không biết các con bạc sử dụng quán bi-a để đánh bạc, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

Đối với 01 điện thoại di động Samsung A9,vỏ màu đen, lắp sim số thuê bao 098542xxxx (tạm giữ của Vũ Duy K); 01 điện thoại di động Samsung J7 Pro, vỏ màu đen, lắp sim số thuê bao 036534xxxx (tạm giữ của Vũ Văn T); 01 điện thoại di động Nokia 105, vỏ màu đen, lắp sim số thuê bao 098984xxxx (tạm giữ của Phùng Văn L); 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro, vỏ màu xanh lục, lắp sim số thuê bao 097770xxxx (tạm giữ của Nguyễn Tuấn A); 01 điện thoại di động Realme 3 Pro, vỏ màu tím đen, lắp sim số thuê bao 086653xxxx (tạm giữ của Lê Tuyền P) không liên quan đến việc đánh bạc, ngày 28/9/2020, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho họ.

Đối với 11.250.000 đồng và 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân là vật chứng của vụ án, đã chuyển Tòa án nhân dân huyện Đông Anh để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Khi được nói lời sau cùng các bị cáo xác định đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và rất ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện và mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật để bị cáo cải tạo trở thành người tốt.

Tại bản Cáo trạng số 184/CT-VKSĐA ngày 26/10/2020 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố các bị cáo: Vũ Duy K, Vũ Văn T, Phùng Văn L, Lê Tuyền P và Nguyễn Tuấn A về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như Cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ Khoản 1 Điều 321, Điểm i, s Khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt:

Vũ Duy K (D): Từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 16 (mười sáu) tháng đến 20 (hai mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Vũ Văn T: Từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 16 (mười sáu) tháng đến 20 (hai mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Lê Tuyền P: Từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 16 (mười sáu) tháng đến 20 (hai mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Nguyễn Tuấn A: Từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 16 (mười sáu) tháng đến 20 (hai mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ Khoản 1 Điều 321, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt:

Phùng Văn L: Từ 12 (mười hai) tháng đến 14 (mười bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 24 (hai mươi tư) tháng đến 28 (hai mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án.

Pht tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo, mỗi bị cáo phạt 10.000.000 đồng.

Biện pháp tư pháp: Không.

Về phần vật chứng: Tịch thu sung công quỹ nhà nước 11.250.000 đồng là tiền thu được trên chiếu bạc và tiền các con bạc sử dụng để đánh bạc. Tịch thu tiêu huỷ 01 bộ bài tú lơ khơ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh - thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh - thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Hồi 19h30’ ngày 23/7/2020, Vũ Duy K, Vũ Văn T, Phùng Văn L, Lê Tuyền P và Nguyễn Tuấn A đã có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức đánh sâm tại Quán bi-a Club xx thuộc Khu chung cư, thôn B, KC, Đ, Hà Nội bị phát hiện bắt quả tang. Tổng số tiền dùng để đánh bạc là 11.250.000 đồng.

Đánh giá tính chất mức độ hành vi, vai trò của từng bị cáo cho thấy: Vũ Duy K cho các con bạc sử dụng quán mình được nhờ trông hộ làm nơi đánh bạc nhưng không thu tiền phế và cùng tham gia đánh bạc nên hành vi của bị cáo chỉ cấu thành tội đánh bạc. Các bị cáo Vũ Văn T, Phùng Văn L và Nguyễn Tuấn A tham gia đánh bạc từ khoảng 16 giờ 30 phút ngày 23/7/2020 đến 19 giờ 30 phút cùng ngày, riêng bị cáo Lê Tuyền P tham gia đánh bạc từ 17 giờ đến 19 giờ 30 phút cùng ngày. Tổng cộng số tiền thu được trên chiếu bạc và trên người các bị cáo là 11.250.000 đồng. Hành vi của các bị cáo cấu thành tội Đánh bạc theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tội phạm không chỉ xâm phạm đến trật tự công cộng mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng do tham lam tư lợi nên các bị cáo vẫn cố ý phạm tội. Lời khai của các bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Do đó, đủ cơ sở kết luận: Các bị cáo Vũ Duy K, Vũ Văn T, Phùng Văn L, Lê Tuyền P và Nguyễn Tuấn A phạm tội Đánh bạc theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đối với thanh niên lạ mặt tham gia đánh bạc các bị cáo đều xác định không rõ nhân thân lai lịch nên cơ quan điều tra không xác định được do vậy cần tách rút tài liệu với trường hợp này để xử lý theo quy định của pháp luật khi làm rõ.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định: Bị cáo Phùng Văn L có 01 tiền án theo bản án số 118/2007/HSST ngày 27/12/2007 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đã được xóa án tích; 01 tiền sự về hành vi đánh nhau năm 2015 đã được xóa và từ năm 2015 cho đến ngày thực hiện hành vi đánh bạc không có các vi phạm pháp luật khác. Các bị cáo Vũ Duy K, Vũ Văn T, Phùng Văn L, Lê Tuyền P và Nguyễn Tuấn A không phải chịu các tình tiết tặng nặng theo quy định của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa các bị cáo đều khai nhận các hành vi đã thực hiện và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật thể hiện sự ăn năn hối cải mong được hưởng sự khoan hồng của pháp luật nên cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Các bị cáo Vũ Văn T, Phùng Văn L, Lê Tuyền P và Nguyễn Tuấn A phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo Phùng Văn L có bố được tặng thưởng Bằng khen, Giấy khen trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và đối với bị cáo Lượng tuy có tiền án, tiền sự nhưng các tiền án tiền sự đều được xóa đã lâu và không phải cùng về hành vi đánh bạc; hành vi các bị cáo thực hiện là tự phát, giản đơn nên chỉ cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với mức độ hành vi của từng bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt, cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội và giao các bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo. Do các bị cáo đều là lao động tự do, công việc bấp bênh do tình hình dịch bệnh Covid và việc tham gia đánh bạc chỉ là ham chơi, tự phát nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo này là phù hợp.

[4] Về vật chứng vụ án: Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung công quỹ nhà nước 11.250.000 đồng là tiền thu được trên hai chiếu bạc và tiền các con bạc sử dụng để đánh bạc. Tịch thu tiêu huỷ 01 bộ bài tú lơ khơ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Vũ Duy K, Vũ Văn T, Phùng Văn L, Lê Tuyền P và Nguyễn Tuấn A phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ Khoản 1 Điều 321, Điểm i, s Khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt:

Vũ Duy K (D): 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 20 (hai mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Vũ Văn T: 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 20 (hai mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Lê Tuyền P: 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 20 (hai mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Nguyễn Tuấn A: 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 20 (hai mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ Khoản 1 Điều 321, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt:

Phùng Văn L: 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 (hai mươi tư) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Vũ Duy K cho UBND xã QT, huyện KX, tỉnh Thái Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách bản án.

Giao bị cáo Vũ Văn T cho UBND xã VL, huyện Đ, thành phố Hà Nội giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách bản án.

Giao bị cáo Lê Tuyền P cho UBND xã TK, huyện CK, tỉnh Phú Thọ giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Tuấn A cho UBND xã KN, huyện Đ, thành phố Hà Nội giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách bản án.

Giao bị cáo Phùng Văn L cho UBND xã VT, huyện BV, thành phố Hà Nội giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách bản án.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù cho bản án đã được hưởng án treo.

Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu sung công quỹ nhà nước 11.250.000 đồng là tiền thu được trên chiếu bạc và tiền các con bạc sử dụng để đánh bạc (Theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 23/10/2020 tại Kho bạc nhà nước huyện Đông Anh). Tịch thu tiêu huỷ 01 bộ bài tú lơ khơ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. (Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao ngày 28/10/2020 giữa Công an huyện Đông Anh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh).

Các bị cáo phải nộp mỗi bị cáo 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 200/2020/HSST ngày 09/12/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:200/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về