TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 199/2020/HSST NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 21 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 192/2020/HSST ngày 03 tháng 8 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 184/2020/QĐXXST-HS ngày 01/9/2020, đối với bị cáo:
NGUYỄN DUY L (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 05 tháng 12 năm 1992 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hải N, sinh năm 1952 và bà Ngô Thị L1, sinh năm 1950; Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con út; Họ tên vợ: Nguyễn Thị L2, sinh năm 1997; có 01 con sinh năm 2016.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo được tại ngoại (có mặt)
Người bị hại:
- Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1996. Trú tại: thôn X, ấp Y, xã Z, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
Bị đơn dân sự:
Anh Lê Văn D, sinh năm 1975. Trú tại: số nhà 210, tổ N, xóm M, ấp T, xã H, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Nguyễn Quốc H, sinh năm 1994. Trú tại: ấp Y, xã Z, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
- Anh Đinh Viết T1, sinh năm 1994. Trú tại: ấp Y, xã Z, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
- Chị Nguyễn Thị Kiều L, sinh năm 1999. Trú tại: ấp Y, xã Z, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
- Chị Trần Thị Ngọc Ng, sinh năm 1984. Trú tại: số nhà 210, tổ N, xóm M, ấp T, xã H, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (có mặt).
- Anh Trần Thanh S, sinh năm 2004. Trú tại: : ấp Y, xã Z, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
Người đại diện theo pháp luật của anh Trần Thanh S:
- Ông Trần Định Tr, sinh năm 1971; bà Đinh Thị Thanh T2, sinh năm 1973. Cùng trú tại: ấp Y, xã Z, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
Người làm chứng:
- Anh Lê Trần Tấn Đ, sinh năm 1993 (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ 25 phút ngày 19/3/2020, Nguyễn Duy L (có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe ô tô biển số 60C-233.21 lưu thông trên đường ĐT 767 theo hướng huyện Vĩnh Cửu đi quốc lộ 1. Khi đi đến Km 03+500 đường ĐT 767 thuộc ấp An Chu, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, L điều khiển xe chạy quá tốc độ (tốc độ xe là 77,76 Km/h, tốc độ trong giới hạn là 60Km/h) và không giữ khoảng cách an toàn nên đã va đụng vào phần đuôi xe ô tô biển số 60C-250.50 do anh Nguyễn Quốc H chở anh Đinh Viết T1 và Trần Thanh S lưu thông cùng chiều phía trước. Quá trình va đụng đã đẩy xe ô tô biển số 60C-250.50 lao về phía trước và tiếp tục va đụng vào đuôi xe ô tô biển số 60C-360.31 do anh Lê Trần Tuấn Đ điều khiển lưu thông cùng chiều phía trước. Hậu quả của vụ tai nạn anh H, anh T1 và anh S bị thương được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Xe ô tô 60C.250.50 bị hư hỏng nặng, xe ô tô biển số 60C.233.21 và xe ô tô biển số 60C- 360.31 bị hư hỏng nhẹ.
Nhận được tin báo xảy ra vụ tại nạn giao thông, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiến hành khám nghiệm hiện trường và xác định được các dấu vết sau:
- Đoạn đường thẳng, mặt đường rải nhựa bằng phẳng giữa tim đường có vạch sơn phân chia mặt đường thành hai chiều xe chạy, mỗi chiều đường có phân thành 2 làn đường, làn đường sát mép đường rộng 1,5m, làn đường sát tim đường rộng 3,5m.
- Điểm mốc là trụ điện số 39 và lấy mép đường bên phải hướng Vĩnh Cửu – Quốc lộ 1 làm chuẩn.
- Vị trí xe ô tô 60C-360.31 dừng trên mặt đường đầu xe hướng về quốc lộ 1, đo từ đầu trục trước và đầu trục sau bên phải đến mép đường chuẩn là 2,2m.
- Vị trí xe ô tô 60C-25050 dừng trên mặt đường đầu xe hướng về quốc lộ 1, đo từ đầu trục trước bánh xe bên phải đến mép đường chuẩn là 2m; đo từ đầu trục sau xe bên phải đến trục sau bên phải xe ô tô 60C-360.31 là 5,2m. Đo từ đầu trục sau bên phải đến mép đường chuẩn là 2,3m.
- Vị trí xe ô tô biển số 60C-23321 dừng trên mặt đường hướng về Vĩnh Cửu-Quốc lộ 1, đo từ đầu trục trước bên phải đến mép lề chuẩn là 2,2m và đo đến đầu trục sau bên phải xe ô tô 60C-25050 là 2,4m. Đo từ trục sau bên phải đến mép đường chuẩn là 2m.
- Vết phanh xe ô tô 60C-23321 dài 34m do bánh xe sau bên phải để lại trên mặt đường hướng Vĩnh Cửu-Quốc lộ 1, đo từ đầu vết phanh đến mép đường chuẩn là 3,4m.
- Trụ điện số 39 đo đến đầu trục trước bánh xe bên phải ô tô biển số 60C- 36031 là 5m.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom ra Quyết định trưng cầu giám định thương tích đối với anh Nguyễn Quốc H, anh Đinh Viết T1 và anh Trần Thanh S nhưng anh H, anh T1 và anh S đã làm đơn bãi nại và từ chối giám định thương tích.
Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 28/4/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện Trảng bom kết luận: Giá trị thiệt hại của xe ô tô biển số 60C-250.50 do vụ tai nạn giao thông gây ra là 207.500.000 đồng.
Tại bản Kết luận giám định số 708/PC09-KLGĐ ngày 23/4/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai kết luận dấu vết va chạm giữa các xe ô tô như sau:
Hệ thống dấu vết cong vênh biến dạng, trượt xước, mài mòn tại các chi tiết phía trước đầu xe, thành xe cabin trước đầu xe, lưới tản nhiệt, cản trước cùng biển số trước của xe ô tô biển số 60C-233.21 hình thành do quá trình va chạm với cụm chi tiết phía sau đuôi xe ô tô biển số 60C-250.50.
Hệ thống dấu vết cong vênh, biến dạng, nứt vỡ, trượt xước mài mòn tại các chi tiết phía trước đầu xe, kính chắn gió, nóc và thành cabin đầu xe, cửa bên trái, lưới tản nhiệt, cụm đèn trước, cản trước cùng biển số phía trước của xe ô tô biển số 60C-250.50 hình thành do va chạm với cụm chi tiết phía sau đuôi xe ô tô biển số 60C-360.31.
Tại bản kết luận số 707/KLGĐ/PC09 ngày 23/4/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Vận tốc tối thiểu của xe ô tô biển số 60C-233.21 tại thời điểm xảy ra tai nạn giao thông là 77,76Km/h.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiến hành xác minh đoạn đường ĐT 767 xảy ra tai nạn các phương tiện giao thông được đi với vận tốc tối đa 60km/h.
Ngày 18/5/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Duy L về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự để điều tra theo quy định.
Tại bản cáo trạng số 210/CT/VKS-TB ngày 31/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Duy L về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
- Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Duy L từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng.
- Về xử lý vật chứng: 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Duy L đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không đặt ra xem xét.
- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.
Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tư cách tham gia tố tụng: Anh Lê Văn D là chủ xe ô tô biển số 60C- 233.21, giao cho bị cáo Nguyễn Duy L là người làm thuê sử dụng xe đi công việc cho anh D. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử xác định anh Lê Văn D là bị đơn dân sự trong vụ án.
[2] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Duy L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội theo như cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn, kết luận giám định, bản kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Trên cơ sở đó đã có đủ căn cứ chứng minh:
[4] Vào khoảng 10 giờ 25 phút ngày 19/3/2020, bị cáo Nguyễn Duy L (có giấy phép lái xe hạng C) điều khiển xe ô tô biển số 60C-233.21 lưu thông trên đường ĐT 767 với vận tốc 77,76 Km/h, đã vượt quá vận tốc giới hạn 60 Km/h trên tuyến đường này. Do không làm chủ được tốc độ và không giữ khoảng cách an toàn, bị cáo L đã điều khiển xe ô tô biển số 60C-233.21 va đụng vào phần đuôi xe ô tô biển số 60C-250.50 lưu thông cùng chiều phía trước; xe ô tô biển số 60C-250.50 tiếp tục va đụng vào xe ô tô biển số 60C-360.31. Sau khi sự việc xảy ra, xe ô tô biển số 60C-250.50 bị hư hỏng nặng, thiệt hại 207.500.000 đồng (hai trăm lẻ bảy triệu năm trăm nghìn đồng), anh Nguyễn Quốc H, anh Đinh Viết T1 và anh Trần Thanh S ngồi trong cabin xe ô tô biển số 60C-250.50 bị thương. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 1 Điều 12 Luật Giao thông đường bộ quy định về tốc độ xe và khoảng cách giữa các xe, đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm nghiêm trọng đến tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương trong tình hình tai nạn giao thông đang diễn biến phức tạp trên địa bàn. Vì vậy, cần có mức hình phạt đủ nghiêm để trừng phạt, răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tích cực tác động chủ xe ô tô biển số 60C-233.21 bồi thường thiệt hại mà bị cáo đã gây ra, được người bị hại làm đơn bãi nại. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; có nơi cư trú rõ ràng; chưa có tiền án, tiền sự; có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử thấy rằng áp dụng quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
[5.1] Anh Lê Văn D là chủ xe ô tô biển số 60C-233.21 đã bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Nguyễn Đức H chủ xe ô tô biển số 60C-250.50 số tiền 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng). Anh H không có yêu cầu bồi thường nào khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5.2] Anh Trần Thanh S, anh Nguyễn Quốc H và anh Đinh Viết T1 đã từ chối giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể. Tuy nhiên anh Sang, anh Huy và anh T1 đều bị thiệt hại về sức khỏe sau khi sự việc xảy ra nên phát sinh trách nhiệm bồi thường. Anh Lê Văn D là chủ xe ô tô biển số 60C-233.21 đã bồi thường cho anh Trần Thanh S số tiền 210.000.000 đồng (hai trăm mười triệu đồng), bồi thường cho anh Nguyễn Quốc H và anh Đinh Viết T số tiền 5.500.000 đồng (năm triệu năm trăm nghìn đồng). Anh S, người đại diện theo pháp luật của anh S, anh T1 và anh H không có yêu cầu bồi thường nào khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5.2] Đối với các xe ô tô biển số 60C-233.21 và 60C-360.31 chỉ bị hư hỏng nhẹ, anh Lê Văn D, chị Trần Thị Ngọc Ng là chủ sở hữu xe ô tô không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[6] Về xử lý vật chứng:
[6.1] Các xe ô tô biển số 60C-233.21, 60C-250.50, 60C-360.31 có giấy tờ hợp pháp Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.
[6.2] Các giấy phép lái xe mang tên Lê Trần Tấn Đ, Nguyễn Quốc H Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho anh Đ và anh H.
[6.3] Đối với 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Duy L, Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo L ngay sau khi tuyên án.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng và án phí phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy L phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy L 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Duy L cho Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai nơi bị cáo cư trú để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.
Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bán án đã cho hưởng án treo.
2. Căn cứ khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Trả lại giấy phép lái xe số 750144006777 do Sở giao thông vận tải tỉnh Đồng Nai cấp ngày 03/7/2019 cho bị cáo Nguyễn Duy L ngay sau khi tuyên án.
3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo Nguyễn Duy L, chị Trần Thị Ngọc Ng có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự khác vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 199/2020/HSST ngày 21/09/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 199/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về