Bản án 199/2020/HS-ST ngày 15/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 199/2020/HS-ST NGÀY 15/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 198/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 208/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Quyết T; tên gọi khác: Không, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1989 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 286, đường T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Số 19, đường B, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1946 và bà Đoàn Thị H, sinh năm 1949; có vợ là Lý Kim A (không đăng ký kết hôn) và có 01 con sinh năm 2009; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Đã từng bị kết án, cụ thể: Tại bản án số 135/2009/HSST ngày 29/12/2009 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bản án số 28/2012/HSST ngày 09/7/2012 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bản án số 39/2012/HSST ngày 22/8/2012 của Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và tổng hợp hình phạt của bản án số 28/2012/HSST ngày 09/7/2012 bị cáo phải chịu 27 tháng tù; bản án số 76/2015/HSST ngày 05/6/2015 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù; ngày 29/7/2005 thực hiện hành vi Cưỡng đoạt tài sản, Công an thành phố L lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng (tiền án, tiền sự đều đã được đương nhiên xóa án); bị cáo bị bắt để tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2020 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 40 phút, ngày 11/8/2020 tổ công tác Công an phường T, thành phố L đang làm nhiệm vụ tại khu vực đường B, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Quyết T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong túi quần bên phải của Nguyễn Quyết T đang mặc 01 gói ni lon và 01 gói giấy bạc bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng, Nguyễn Quyết T khai nhận 01 gói giấy bạc chứa chất ma túy vừa mua, còn 01 gói nilon chứa chất muối hạt.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Quyết T khai nhận: Khoảng 9 giờ ngày 11/8/2020 sử dụng máy tính của quán intrernet tại số 116, đường B, phường H, thành phố L nhắn tin qua ứng dụng zalo có sẵn với một người có nickname là “Cu” (Thịnh không rõ lai lịch) thỏa thuận mua 200.000 đồng chất ma túy đá thanh toán bằng thẻ game giá 200.000 đồng, địa điểm nhận ma túy tại khu vực Cổng Thành, phường Chi Lăng, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Sau đó Nguyễn Quyết T đi bộ về phòng trọ tại số 19, đường B, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn mượn xe mô tô nhãn hiệu SUFAT màu xám đen của anh Nguyễn Minh Đ để đi đến địa điểm đã hẹn và gặp một nam thanh niên tên Sơn, thường gọi là “S” (Thịnh không rõ tên tuổi địa chỉ), Nguyễn Quyết T đưa cho Sơn thẻ game 200.000 đồng, Sơn đưa cho Nguyễn Quyết T 01 gói giấy bạc bên trong đựng chất ma túy đá. Nguyễn Quyết T cho vào túi quần đằng trước bên phải rồi điều khiển xe mô tô đi về, đến đầu ngõ vào khu trọ Nguyễn Quyết T gặp và trả xe máy cho anh Nguyễn Minh Đ rồi đi bộ vào phòng trọ thì bị lực lượng công an bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại bản kết quả giám định số 238/KL-PC 09 ngày 12/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nilon có khối lượng 0,168 gam (đã trừ bì), không tìm thấy chất ma túy trong mẫu vật; Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc màu trắng là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,136 gam (đã trừ bì).

Tại cáo trạng số 200/CT-VKS ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Quyết T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Tại phần tranh luận: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn luận tội bị cáo Nguyễn Quyết T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Quyết T từ 15 đến 18 tháng tù. Về hình phạt bổ sung, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, do bị cáo không có tài sản riêng. Về vật chứng, áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự đề nghị tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã được tống đạt các văn bản quyết định tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đều có giá trị pháp lý.

[2] Về nội dung vụ án: Hồi 09 giờ 40 phút, ngày 11/8/2020 tại khu vực đường B, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Nguyễn Quyết T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Methamphetamine có khối lương 0,136 gam mục đích để sử dụng cho bản thân. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội trữ trái phép chất ma túy và với khối lượng chất ma túy Methamphetamine trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam thì người lưu giữ chất ma túy phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nhận thấy cáo trạng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến an ninh trật tự xã hội và quyền quản lý tân dược của Nhà nước, làm phát sinh các tệ nạn xấu trong xã hội. Do đó cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, mẹ đẻ bị cáo là bà Đoàn Thị H được Chủ tịch nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến Hạng nhì và bố đẻ bị cáo ông Nguyễn Văn T Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến Hạng ba. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người thường xuyên vi phạm pháp luật và bị kết án nhưng sau khi cải tạo, giáo dục bị cáo vẫn không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Do đó, đây cũng là tình tiết để xem xét khi áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung, qua xác minh bị cáo không có tài sản riêng. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Vật chứng gồm: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định là chất ma túy nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[9] Đối với người có Nickname “C” và người thanh niên tên “S” đã bán ma túy cho bị cáo vào ngày 11/8/2020 tại khu vực C, phường C, thành phố L, do bị cáo không biết rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không xác minh, làm rõ được để xem xét, xử lý trong vụ án này.

[10] Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát luận tội bị cáo và đề nghị giải quyết toàn bộ nội dung vụ án là đúng pháp luật, phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 61; Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 61; Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quyết T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quyết T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt để tạm giữ, tạm giam là ngày 11/8/2020.

2. Về tang vật xử lý như sau:

Tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định;

(Chi tiết các vật chứng trên được miêu tả theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/11/2020 giữa Công an thành phố L với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Quyết T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 199/2020/HS-ST ngày 15/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:199/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về