Bản án 198/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 198/2020/HS-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 213/HSST ngày 21 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 224/QĐXXST ngày 28 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Huỳnh Ngọc T (Tên gọi khác: Tèo) sinh năm 1980, tại: tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Hộ khẩu thường trú: ... đường N, phường T, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ ..., ấp H, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ học vấn: 6/12; Cha: Huỳnh Văn B (Đã chết); Mẹ: Hồ Thị TV (Đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Hồng T; Có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2012.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 131/HSST ngày 09 tháng 12 năm 2002 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” đã chấp hành xong.

Bị bắt ngày 10 tháng 3 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (Có mặt).

Bị hại: Ông Hoàng Duy T (Đã chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1987; Địa chỉ: .. đường H, phường T, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Có mặt).  

Người đại diện theo ủy quyền của bà T: Ông Nguyễn Trung T, sinh năm 1958; Địa chỉ: : .. đường H, phường T, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Có mặt).

2. Ông Hoàng Mỹ T, sinh năm 1960 và bà Trịnh Thị Kim N, sinh năm: 1960 cùng địa chỉ: … đường H, phường T, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1984; Địa chỉ: Tổ ..., ấp H, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Có mặt).

2. Cháu Hoàng Duy T, sinh năm 2015; Địa chỉ: .. đường H, phường T, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Có mặt).

Người giám hộ: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1987; Địa chỉ: .. đường H, phường T, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Có mặt).

Người làm chứng:

1. Ông Ngô Tiến B, sinh năm 1983; Địa chỉ: ... đường V, Phường 12, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Có mặt).

2. Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1958; Địa chỉ: … đường V, Phường 12, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các lài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 25 phút ngày 10 tháng 3 năm 2020, Huỳnh Ngọc T điều khiển xe ô tô biển số 72A-160.58 lưu thông trên đường Ven Biển, hướng đi từ Trung tâm thành phố Vũng Tàu về huyện Long Điền thuộc Phường 12, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Khi đến khu vực trước nhà số 97 đường Phước Thắng, Phường 12, thành phố Vũng Tàu thì Thu để xe ô tô của mình va chạm vào phía sau xe mô tô biển số 72L7-5002 do ông Nguyễn Văn A điều khiển và phía sau xe mô tô biển số 72C 1-086.22 do ông Hoàng Duy T điều khiển sau xe chở ông Ngô Tiến B lưu thông cùng chiều phía trước (là tổ đi tuần tra làm nhiệm vụ phòng chống tội phạm, đảm bảo an ninh trật tự ở địa bàn Phường 12, thành phố Vũng Tàu) làm 03 người và 2 phương tiện ngã xuống đường anh Tính, ông Bình và ông A bị thương được mọi người đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện Lê Lợi. Hậu quả: ông Nguyễn Văn A, ông Ngô Tiến B bị thương; riêng ông Hoàng Duy T điều trị thương tích đến ngày 13 tháng 3 năm 2020 đã tử vong; 03 phương tiện hư hỏng nhẹ.

Qua khám nghiệm hiện trường, dấu vết để lại trên các phương tiện thu thập tài liệu chứng cứ xác định:

- Khu vực nơi xảy ra tai nạn giao thông đường bộ là đoạn đường (Ven Biển) ở khu vực trước nhà số 97 đường Phước Thắng, thuộc Phường 12, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; đây là đoạn đường thẳng, mặt đường phẳng, rộng 11m00 có vạch sơn đứt quãng phân chia hai dòng phương tiện lưu thông từ hai hướng ngược chiều nhau, hai bên đường có hệ thống đèn chiếu sáng và mỗi phần đường phân chia 02 làn xe lưu thông theo quy định. Vị trí xảy ra tai nạn thuộc phần đường bên phải ở làn xe mô tô theo chiều xe mô tô và ô tô lưu thông theo hướng đi từ Trung tâm thành phố Vũng Tàu về huyện Long Điền.

Lấy trụ điện số 480/VT/150 phía bên phải ở trong lề đường là điểm chuẩn cố định và mép lề đường bên phải hướng đi từ trung tâm thành phố Vũng Tàu về xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền làm lề chuẩn để đo thu thập các số liệu.

Sau khi tai nạn xảy ra;

Xe mô tô biển số 72L7-5002 đổ ngã xuống đường về phía bên phải ở phần đường bên phải theo chiều xe lưu thông, đầu xe chếch xéo sang phải hướng vào lề chuẩn; trục bánh trước và bánh sau phía cách mép lề chuẩn là 01m80 và 02m10. Trên hiện trường để lại vết cày đứt quãng do xe mô tô đổ ngã xuống đường tạo ra dài 06m00, đầu vết cày cách mép lề chuẩn là 02m00, cuối vết cày hướng đến tâm vị trí xe mô tô đổ ngã cách mép lề chuẩn là 02m10.

Xe mô tô biển số 72C1-086.22 đổ ngã xuống đường về phía bên phải ở phần đường bên phải theo chiều xe lưu thông, đầu xe chếch xéo sang phải hướng vào lề chuẩn; trục bánh trước và bánh sau cách mép lề chuẩn là 01m50 và 02m60.

Vị trí mảnh gương của xe ô tô bị vỡ để lại ở hiện trường (kích thước 20cm - 17cm) cách mép lề chuẩn chuẩn là 06m90, cách đầu vết cày xe mô tô biển số 72L7-5002 là 21m75;

Vị trí mảnh vỡ nhựa màu trắng của xe ô tô để lại ở hiện trường (kích thước 5cmx7cm) từ tâm mảnh vỡ cách mép lề chuẩn là 01m70, cách trục để chân trước của xe mô tô biển số 72L7-5002 là 26m60.

Vị trí vết dịch màu đỏ để lại ở hiện trường (mã số 6 có kích thước 10cmx5cm) từ tâm vết dịch màu đỏ cách mép lề chuẩn là 01m60, cách trục để chân trước của xe mô tô 72L7-5002 là 47m50.

Vị trí vết dịch màu đỏ để lại ở hiện trường (mã số 7 có kích thước 10cmx5cm) từ tâm vết dịch màu đỏ cách mép lề chuẩn là 03m60, cách tâm vết dịch màu đỏ để lại ở hiện trường (mã số 6) là 19m40, cách trục để chân trước của xe mô tô 72C1- 086.22 là 33m00.

Kết quả dựng lại hiện trường vào ngày 11/3/2020 (theo chỉ dẫn của nhân chứng, người liên quan) thu thập tài liệu chứng cứ xác định:

Địa điểm xảy ra tai nạn giao thông đường bộ; vị trí các vật chứng là xe mô tô biển số 72L7-5002; xe mô tô biển số 720-086.22; vết cày trượt trên mặt đường trải nhựa của xe mô tô biển số 72L7-5002; mảnh gương của xe ô tô biển số 72A-160.58; mảnh vỡ xe ô tô màu trắng của xe ô tô biển số 72A-160.58; 02 vết dịch màu đỏ. Tất cả vật thể trên để lại trên mặt đường sau tai nạn đúng như số liệu được ghi nhận khám nghiệm hiện trường vào ngày 10 tháng 3 năm 2020.

Riêng xe ô tô biển số 72A- 160.58 lưu thông trên đường theo hướng đi từ trung tâm thành phố Vũng Tàu về xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền xác định vị trí trước khi va chạm đầu tiên với xe mô tô biển số 72L7-5002 và 720-086.22 là trục bánh trước và bánh sau phía bên phải cách mép lề chuẩn là 00m80 và 00m80.

Điểm va chạm thứ nhất (mã số 8) cách mép lề chuẩn 01m50, cách phần để chân trước của xe mô tô biển số 72L7 - 5002 là 09m90, cách điểm chuẩn cố định trụ điện số 1480/VT/150 là 10m30, cách đầu vết cày trên là 4m45.

Điểm va chạm thứ hai (mã số 9) cách điểm chuẩn cố định trụ điện số 480VT/150 là 06m40, cách mép lề chuẩn 01m60, cách điểm va chạm thứ nhất (số 8) là 15m40, cách tâm 02 vết dịch màu đỏ của nạn nhân để lại hiện trường lần lượt là 42 mét 90 và 62 mét 30, cách trục để chân trước xe mô tô biển số 72C1 - 086.22 là 95 mét 10.

Sau khi tai nạn xảy ra lúc 01 giờ 25 phút ngày 10 tháng 3 năm 2020 đến 10 giờ 00 phút cùng ngày, T đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đầu thú và khai nhận do điều khiển xe ô tô biển số 72A - 160.58 lưu thông trên đường với tốc độ cao, trong trạng thái tinh thần ngủ gật, không chú ý quan sát dẫn đến gây tai nạn giao thông như trên. Sau khi xảy ra va chạm giao thông, xe ô tô 72A-160.58 tiếp tục di chuyển về phía trước theo chiều lưu thông cho đến khi túi khí vô lăng bung ra làm T giật mình và dừng xe lại (quá trình dựng lại hiện trường T không xác định được chính xác vị trí xe ô tô dừng lại ở đâu). Lúc đó, T thấy nắp capo của xe ô tô bị biến dạng bật lên, T xuống xe đóng lại nắp capo, nhìn về phía sau xe nhưng không xác định được xe ô tô đã va chạm với phương tiện tham gia giao thông hay vật gì trên đường do trời tối. T trong tình trạng tinh thần hoảng loạn và lo sợ nếu quay lại có thể bị người dân đánh nên đã không dám quay lại phía sau mà tiếp tục điều khiển xe ô tô đi về nhà mình. Trên đường về T đã trấn tĩnh lại và điện thoại thông báo cho chị Nguyễn Thị Hồng T (là vợ của T) biết để đi đến nơi xảy ra va chạm xem xét sự việc xảy ra như thế nào và khắc phục hậu quả do T gây ra. Sau khi được vợ cho biết đã gây tai nạn va chạm với 02 xe mô tô khiến 03 người bị thương phải đi bệnh viện Bà Rịa cấp cứu thì T đã đến Công an thành phố Vũng Tàu trình diện đầu thú. Đồng thời, đại diện gia đình của T cũng đến bệnh viện khắc phục hậu quả do T gây ra.

Riêng giấy phép lái xe hạng B2 số 770167002130 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu cấp ngày 04 tháng 4 năm 2016, có giá trị đến ngày 04 tháng 4 năm 2026 cho Huỳnh Ngọc T. Vào ngày 03 tháng 3 năm 2020, T điều khiển xe ô tô biển số 72A-160.58 chạy quá tốc độ quy định, đã bị lực lượng Cảnh sát giao thông thuộc đội Cảnh sát Giao thông Công an huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận lập biên bản vi phạm hành chính và biên bản tạm giữ giấy phép lái xe của Thu và giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô nêu trên về hành vi chạy quá tốc độ quy định. Theo biên bản vi phạm hành chính, Công an huyện Đức Linh hẹn Thu đến ngày 13 tháng 3 năm 2020 đến giải quyết vụ việc vi phạm. Ngày 06 tháng 3 năm 2020, Công an huyện Đức Linh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0069019, hình thức phạt tiền, mức phạt 7.000.000đ và hình thức xử phạt bổ sung; tước giấy phép lái xe 03 tháng kể từ ngày 06 tháng 3 năm 2020. Tuy nhiên, T chưa nhận được các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính và Thông báo yêu cầu thực hiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính của công an huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận thì vào ngày 10 tháng 3 năm 2020 T điều khiển xe ô tô 72A-160.58 đã gây tai nạn giao thông đường bộ như trên. Hiện nay gia đình của T đã thực hiện đóng phạt số tiền nêu trên và nhận lại giấy phép lái xe hạng B2 số 770167002130 của Huỳnh Ngọc T.

Bản Kết luận giám định số 431/PC09-Đ2, ngày 23/3/2020, của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, kết luận:

Vị trí va chạm trên xe ô tô biển số 72A-160.58 gồm: Mặt ngoài phía sau đèn chiếu sáng và đèn chuyển hướng phía trước bên trái và mặt ngoài ốp bảo vệ đầu xe bên trái, mặt ngoài cánh cửa trước bên trái, mặt ngoài ốp bảo vệ thân xe phía sau và chắn bùn bánh sau bên trái. Chiều hướng từ trước ra sau; Nhựa bảo vệ đầu xe bên trái, khung nhựa thông gió đầu xe bên trái, khu vực két nước bên trái phía dưới. Chiều hướng từ trước ra sau, từ trên xuống dưới.

Vị trí va chạm trên xe mô tô biển số 72L7-5002 là mặt ngoài và mặt sau đầu tay lái bên phải, mặt ngoài phía sau tay cầm yên xe bên phải. Chiều hướng từ sau ra trước, từ dưới lên trên.

Vị trí va chạm trên xe mô tô biển số 72C 1-086.22 là chắn bùn bánh sau, đèn chiếu sáng và đèn chuyển hướng hai bên phía sau, mặt sau hai giảm xóc sau. Chiều hướng từ sau ra trước, từ dưới lên trên.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 91/TT ngày 18/3/2020 của Trung pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Bà Rịa - Tàu Vũng Tàu kết luận nguyên nhân tử vong của anh Hoàng Duy T: “Chấn thương sọ não nặng. Chết do chấn thương./.”

Nguyên nhân gây tai nạn: Do, Huỳnh Ngọc T điều khiển xe ô tô biển số 72A-160.58 lưu thông trên đường trong tình trạng sức khỏe không đảm bảo (ngủ gật) không làm chủ tốc độ và tay lái “hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ” quy định tại khoản 23 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ. “người tham gia giao thông phải có ý thức tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông, giữ gìn an toàn cho mình và cho người khác...” quy định tại khoản 5 Điều 4 Luật Giao thông đường bộ.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Huỳnh Ngọc T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. (BLĐT từ số 225 đến 245).

Về thu giữ và xử lý vật chứng: Xe mô tô biển số 72L7-5002, mô tô biển số 72C1-086.22 và xe ô tô biển số 72A-160.58 Cơ quan Cảnh sát Điều tra công an thành phố Vũng Tàu đã trả lại cho chủ sở hữu ông Nguyễn Văn A, ông Hoàng Mỹ T và bà Nguyễn Thị Hồng T.

Về phần trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Hồng T (vợ của T) đã tự nguyện nộp số tiền 200.000.000đ để bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại. Số tiền này, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Vũng Tàu chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý chờ xử lý, đại diện gia đình bị hại là bà Nguyễn Thị T (vợ ông T) và ông Hoàng Mỹ T, bà Trịnh Thị Kim N (bố mẹ ruột của ông T) có yêu cầu sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật tại Tòa án.

Đối với ông Ngô Tiến B và ông Nguyễn Văn A đã viết đơn từ chối giám định thương tật và giám định tài sản bị thiệt hại và tự khắc phúc hậu quả đồng thời không yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo T và không yêu cầu đề nghị gì khác.

Tại bản Cáo trạng số 224/CT-VKS ngày 21 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu truy tố Huỳnh Ngọc T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Huỳnh Ngọc T xác định sau khi va chạm xảy ra, bị cáo biết đã va chạm với xe của công an nên hoảng sợ bỏ chạy khỏi hiện trường mà không ở lại cứu giúp người bị nạn; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo tự nguyện bồi thường cho ông Hoàng Mỹ T và bà Trịnh Thị Kim N là bố mẹ ruột anh T 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) tiền tổn thất tinh thần; tự nguyện bồi thường cho chị Nguyễn Thị T (vợ anh T) và cháu Hoàng Duy T (con ruột anh T) 550.000.000đ (Năm trăm năm mươi triệu đồng) là tiền tổn thất tinh thần, chi phí mai táng và tiền cấp dưỡng nuôi cháu T cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi. Tổng số tiền bị cáo tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại là 620.000.000d (Sáu trăm hai mươi triệu đồng).

Ông Hoàng Mỹ T, bà Trịnh Thị Kim N đồng ý với sự tự nguyện bồi thường của bị cáo, không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm và xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Ông Nguyễn Trung T đồng ý với sự tự nguyện bồi thường của bị cáo, không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, xử phạt Huỳnh Ngọc T từ 24 đến 30 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị ghi nhận sự tự nguyện bồi thường 620.000.000đ (Sáu trăm hai mươi triệu đồng) của bị cáo đối với gia đình bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định t tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đều đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh và điều luật áp dụng đi với bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Huỳnh Ngọc T tại phiên tòa phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường lúc 01 giờ 45 phút ngày 10 tháng 3 năm 2020; Bản Kết luận giám định pháp y về tử thi ngày 18 tháng 3 năm 2020; Biên bản khám nghiệm phương tiện; Lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 01 giờ 25 phút ngày 10 tháng 3 năm 2020, Huỳnh Ngọc T có giấy phép lái xe hạng B2 điều khiển xe ô tô biển số 72A-160.58 khi đến khu vực trước nhà số 97 đường Phước Thắng, Phường 12, thành phố Vũng Tàu va chạm vào phía sau xe mô tô biển số 72L7-5002 do ông Nguyễn Văn A điều khiển và phía sau xe mô tô biển số 72C1-086.22 do ông Hoàng Duy T điều khiển sau xe chở ông Ngô Tiến B lưu thông cùng chiều phía trước. Hậu quả của vụ tai nạn dẫn đến ông Nguyễn Văn A, ông Ngô Tiến Bình bị thương; riêng ông Hoàng Duy T tử vong vào ngày 13 tháng 3 năm 2020; 03 phương tiện hư hỏng nhẹ.

Nguyên nhân và lỗi dẫn đến vụ tai nạn: Do bị cáo Huỳnh Ngọc T điều khiển xe trong tình trạng không đảm bảo sức khỏe, ngủ gật nên đã chạy xe ô tô của mình quá tốc độ, lấn hoàn toàn vào làn đường xe máy gây tai nạn. Sau khi va chạm xảy ra, mặc dù là thời điểm đêm khuya, rất ít người lưu thông trên đường nhưng bị cáo đã không ở lại cứu giúp người bị nạn mà điều khiển xe rời khỏi hiện trường. Hành vi của Huỳnh Ngọc T đã vi phạm khoản 11, khoản 23 Điều 8; khoản 1 Điều 9; Điều 12 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự đúng như cáo trạng số 224/CT- VKS ngày 21 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố đối với bị cáo.

[3]. Tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Huỳnh Ngọc T điều khiển xe ô tô là nguồn nguy hiểm cao độ, lưu thông trên đường nhưng không tuân thủ đúng quy định pháp luật về giao thông, gây tai nạn xong bỏ chạy, không ở lại cứu giúp người bị nạn. Hành vi phạm tội của bị cáo đã ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn giao thông tại địa phương, gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của người khác, gây hoang mang lo lắng cho quần chúng nhân dân khi tham gia giao thông, nhất là trong thời điểm hiện nay tình hình vi phạm trật tự an toàn giao thông đang diễn ra phức tạp, phần lớn là do không chấp hành luật giao thông của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Mặc dù bị cáo không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác nên phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tự nguyện bồi thường toàn bộ chi phí thiệt hại cho người đại hiện hợp pháp của người bị hại; Sau khi tai nạn xảy ra đã gọi điện báo về cho bà Nguyễn Thị Hồng T là vợ bị cáo để bà T ra hiện trường xem xét tình hình và bị cáo cũng đã ra đầu thú; tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của người bị hại hại xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là có căn cứ, được chấp nhận.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo tự nguyện bồi thường cho ông Hoàng Mỹ T, bà Trịnh Thị Kim N 70.000.000đ; bồi thường cho cháu Hoàng Duy T và chị Nguyễn Thị T 550.000.000đ (Năm trăm năm mươi triệu đồng). Các đại diện hợp pháp của bị hại đồng ý nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Xe mô tô biển số 72L7-5002, mô tô biển số 72C1-086.22 và xe ô tô biển số 72A-160.58 Cơ quan Cảnh sát Điều tra công an thành phố Vũng Tàu đã trả lại cho chủ sở hữu ông Nguyễn Văn A, ông Hoàng Mỹ T và bà Nguyễn Thị Hồng T là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Ngọc T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 ; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Ngọc T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 10 tháng 3 năm 2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự thỏa thuận bồi thường về phần dân sự. Công nhận sự thỏa thuận của các bên về phần bồi thường dân sự. Cụ thể: Bị cáo tự nguyện bồi thường cho ông Hoàng Mỹ T và bà Trịnh Thị Kim N là bố mẹ ruột bị hại Hoàng Duy T 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng; Tự nguyện bồi thường cho bà Nguyễn Thị T (vợ ông Tính) và cháu Hoàng Duy T (con ruột ông T) 550.000.000d (Năm trăm năm mươi triệu đồng).

Tổng số tiền bị cáo tự nguyện bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại là 620.000.000đ (Sáu trăm hai mươi triệu đồng), được khấu trừ vào 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vũng Tàu theo Biên lai thu tiền số 0001995 ngày 04 tháng 9 năm 2020. Bị cáo còn phải bồi thường cho ông T, bà N, bà T và cháu T 420.000.000đ (Bốn trăm hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7, Điều 7A và Điều 9 luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 21; Điều 26; Điều 27 Nghị quyết 326/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 20.800.000đ (Hai mươi triệu, tám trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người đại diện hợp pháp của người bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 198/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:198/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về