TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 198/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 24 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 431/2020/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 243/2020/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Hà M, sinh năm 1996 (có mặt) Địa chỉ: Ấp Kinh A, xã TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
Bị đơn: Ông Huỳnh Văn T, sinh năm 1987 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Kinh B, xã TP, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Trình bày của bà Lê Hà M:
Hôn nhân: Bà Lê Hà M và ông Huỳnh Văn T tự nguyện chung sống với nhau có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 30/7/2015. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, hôn nhân không thể kéo dài, bà M và ông T đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay nên bà M yêu cầu được ly hôn với ông T.
Con chung: Bà M và ông T có 01 người con chung tên Lê Ngọc H, sinh ngày 10/7/2017 (giới tính nữ), hiện do bà M đang nuôi dạy. Khi ly hôn, bà M yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đặt ra yêu cầu xem xét.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: Thực hiện đúng các quy định của tố tụng dân sự; Về nội dung vụ án: Xét thấy hôn nhân của bà M và ông T đã lâm vào mâu thuẫn trầm trọng, bà M và ông T không thể tiếp tục chung sống với nhau nên bà M yêu cầu ly hôn là phù hợp, đối với con chung là nữ, từ trước đến nay do bà M nuôi dạy nên để cho bà M tiếp tục nuôi con. Do đó, các yêu cầu của bà Lê Hà M có căn cứ nên đề nghị chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Lê Hà M khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn là ông Huỳnh Văn T. Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn; ông T có nơi cư trú tại ấp Kinh B, xã, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của bà M thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai nhưng ông T vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông T theo quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án:
[3] Về hôn nhân: Bà Lê Hà M và ông Huỳnh Văn T tự nguyện chung sống với nhau có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 30/7/2015. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, hôn nhân không thể kéo dài, bà M và ông T đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay nên bà M yêu cầu được ly hôn với ông T. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà M và ông T đã tuân thủ về điều kiện đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật công nhận là vợ chồng. Thời gian chung sống bà M cho rằng vợ chồng bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân giữa bà M và ông T không đạt được, bà M và ông T đã có thời gian dài sống ly thân với nhau, thực tế cho thấy vợ chồng ông bà không thể đoàn tụ được với nhau. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải để bà M và ông T có điều kiện gặp nhau thỏa thuận đoàn tụ gia đình nhưng không có kết quả do ông T vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho bà M và ông T được ly hôn là phù hợp.
[4] Về con chung: Bà M và ông T có 01 người con chung tên Lê Ngọc H, sinh ngày 10/7/2017 (giới tính nữ), hiện do bà M đang nuôi dạy. Khi ly hôn, bà M yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy con chung là nữ, từ trước cho đến nay do bà M nuôi dạy nên cần chấp nhận cho bà M được tiếp tục nuôi dạy con chung. Bà M không đặt ra yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Ông T không trực tiếp nuôi con có quyền đến thăm con theo quy định của pháp luật, không ái được quyền cản trở.
[5] Về tài sản chung: Bà M xác định vợ chồng không có tài sản chung, quá trình thụ lý giải quyết vụ án ông T không có ý kiến gì đối với tài sản chung vợ chồng, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về nợ chung: Bà M xác định vợ chồng không có nợ người ngoài và người ngoài cũng không nợ vợ chồng nên không yêu cầu giải quyết. Tại xác nhận về việc không nợ của Ủy ban nhân dân xã TB đề ngày 17/8/2020 xác định bà M và ông T không có nợ chung. Do đó, không xem xét về nợ chung.
[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà M phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 của luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xét xử vắng mặt ông Huỳnh Văn T.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Hà M đối với ông Huỳnh Văn T.
2.1. Về hôn nhân: Bà Lê Hà M và ông Huỳnh Văn T được ly hôn.
2.2. Về con chung: Giao cháu Lê Ngọc H, sinh ngày 10/7/2017 (giới tính nữ) cho bà M tiếp tục nuôi dạy. Bà M không đặt ra yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Ông T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở.
2.3. Tài sản chung, nợ chung: Không có.
3. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà M phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 09 tháng 10 năm 2020 bà M có dự nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0011466 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu án phí.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng ông T vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định.
Bản án 198/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 198/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về