TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 198/2019/HSPT NGÀY 05/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 05/7/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 176/2019/HSPT ngày 28/5/2019, đối với bị cáo Lê Thị P về tội “Tàng trữ hàng cấm”, do có kháng cáo của bị cáo Lê Thị P đối với bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HSST ngày 23/04/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo: Họ và tên: LÊ THỊ P, sinh ngày 08/7/1975, tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn S, xã X, huyện K, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Huy Đ (đã chết) và bà Lê Thị B1 (đã chết); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn, cấm đi khỏi nơi cư trú; Hiện bị cáo đang tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Đình B2 - Văn phòng luật sư Đình B2 - Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk.
Địa chỉ: Đường HV, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 7 giờ 30 phút ngày 12/12/2018, Lê Thị P, sinh năm 1975 cùng Lương Văn X1, Nguyễn Ngọc H, Cao Minh H1, Trương Văn T1 và Trần Hoài N cùng uống cà phê với nhau tại quán H thuộc xã X, huyện K, tỉnh Đăk Nông đã rủ nhau đi cửa khẩu L, huyện C, tỉnh Gia Lai chơi và được cả nhóm đồng ý. Để có phương tiện đi H đã đến nhà anh Nguyễn Văn T2, ở thị trấn M, huyện K, tỉnh Đăk Nông lấy xe ô tô biển số 48A – 06455 mà Phạm Văn T3 đã thuê của anh T2 từ trước chở tất cả đi. Khi đến thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk cả nhóm đón thêm Nguyễn Thị Kim L1 cùng đi. Khoảng 13 giờ cùng ngày, cả nhóm đến cửa khẩu L, lúc này P và những người đi cùng đã gặp Lê Văn Q (là chồng của P) và Phạm Văn T3 đang ở đây từ trước nên đã cùng nhau đi chơi đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày thì P, Q, H, X1, T1, N, H1, L1và T3 ra về. Lúc này T3 là người trực tiếp điều khiển xe ô tô biển số 48A - 06455. Khi đi cách cửa khẩu L được khoảng 20 km, T3 cho xe dừng tại một quán cơm bên đường (không nhớ tên, địa chỉ cụ thể) để mọi người vào quán nghỉ ngơi ăn cơm. Quá trình cùng mọi người ngồi ăn cơm, P ăn xong trước nên đứng dậy đi ra bên ngoài quán thì gặp 01 người đàn ông không quen biết đến hỏi P có mua pháo về để sử dụng dịp tết không. Do có nhu cầu mua pháo về sử dụng trong dịp Tết nguyên đán Kỷ Hợi nên P đã đồng ý mua 06 hộp pháo hoa nổ loại 49 ống, 06 hộp pháo hoa nổ loại 36 ống và 17 túi pháo nổ của người thanh niên với tổng giá tiền 8.800.000 đồng (Tám triệu tám trăm nghìn đồng). Toàn bộ số pháo trên được cất giữ trong 01 ba lô màu đỏ đen và 01 ba lô màu xanh đen. Sau khi mua xong, P đã mang ba lô màu xanh đen để phía sau cốp xe ô tô và ba lô màu đỏ đen để phía trước chỗ mình ngồi. Quá trình mua và mang 02 ba lô chứa pháo trên lên xe ô tô P không nói cho T3 và những người trên xe biết.
Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 12/12/2018 khi xe ô tô 48A- 06455 do T3 điều khiển đi đến khu vực đèo HL, phường BT, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Lắk phối hợp với Công an thị xã Buôn Hồ tiến hành kiểm tra phát hiện trong cốp phía sau xe và trước ghế phụ của ô tô có 01 túi ba lô màu xanh đen bên trong có chứa 05 hộp pháo bên ngoài ghi chữ nước ngoài 49 shot, nhiều màu sắc, kích thước (16,5x16,5x10)cm; 01 hộp pháo có ghi chữ “Blessing ausphicious, 49shot”, nhiều màu sắc, kích thước (16,5x16,5x10) cm; 13 túi ni lon bên trong có chứa pháo bi tròn hình quả bóng, đường kính 2 cm. 01 túi ba lô màu đỏ đen bên trong có chứa 06 hộp pháo ghi chữ “Wok of life A8416, 36 shot”, nhiều màu sắc, kích thước (14x14x10)cm; 04 túi ni lon có chứa pháo bi tròn hình trái bóng, đường kính 2cm. Nên đã tiến hành lập biên bản tạm giữ toàn bộ tang vật theo quy định để tiến hành giám định.
Bản Kết luận giám định số: 633/C09B ngày 02/01/2019 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Toàn bộ số pháo tạm giữ trên là pháo nổ và pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ, khi đốt phát ra tiếng nổ; bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng của toàn bộ mẫu vật gửi giám định là 21.8 kg.
Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HS-ST ngày 23/4/2019, của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Lê Thị P phạm tội: “Tàng trữ hàng cấm”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Thị P 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 25/4/2019 bị cáo Lê Thị P có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu trên. Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ , đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, tính chất hành vi của bị cáo là nguy hiểm nên cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLTTHS, không chấp nhận đơn kháng của bị cáo Lê Thị P, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2019/HSST ngày 23/4/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ về phần hình phạt.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
* Người bào chữa cho bị cáo, ông Nguyễn Đình B2 - Luật sư văn phòng Luật sư Đình Bảo, trình bày:
Việc bị cáo Lê Thị P tàng trữ hàng cấm là do không am hiểu pháp luật, để chuẩn bị dịp tết nguyên đán nên bị cáo chỉ mua số lượng pháo nổ chỉ 3,6kg còn lại là pháo hoa nổ về để sử dụng không có hành vi mua bán. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo P 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ hàng cấm” là quá cao. Xét nhân thân bị cáo phạm tội lần đầu, hoàn cảnh của bị cáo quá khó khăn chồng đi làm ăn xa. Đề nghị, Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo P, cho bị cáo P được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Do ý thức coi thường pháp luật, nhằm thỏa mãn nhu cầu đốt pháo trong dịp tết nguyên đán. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 12/12/2018 tại khu vực đèo HL, phường BT, thị xã B, Lê Thị P đã có hành vi tàng trữ hàng cấm là pháo nổ. Tổng khối lượng là 21,8kg.
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo P về tội “tàng trữ hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] ] Xét kháng cáo của bị cáo Lê Thị P xin được hưởng án treo, thấy rằng:
Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; mức hình phạt 01 năm tù 03 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo chỉ cung cấp thêm đã nộp án phí hình sự sơ thẩm, thể hiện sự ăn năn hối cải của bị cáo. Tuy nhiên việc tàng trữ hàng cấm là pháo nổ hiện nay Nhà nước ta đang có biện pháp ngăn cấm không cho sử dụng. Hành vi của bị cáo P là rất nguy hiểm cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân có ích và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
Từ những phân tích trên, kháng cáo của bị cáo P không có căn cứ để chấp nhận. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLTTHS, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HSST ngày 23/4/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ về phần hình phạt.
[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thị P.
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HSST ngày 23 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Thị P 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo Lê Thị P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 198/2019/HSPT ngày 05/07/2019 về tội tàng trữ hàng cấm
Số hiệu: | 198/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về