Bản án 198/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 198/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/10/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 12 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 640/2018/TLST-HNGĐ, ngày 18 tháng 7 năm 2018 về việc “xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 643/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Kim T, sinh năm 1985 (có mặt). Địa chỉ: Ấp TP, xã P, huyện T, tỉnh C.

2. Bị đơn: Anh Giang Văn H, sinh năm 1987 ( vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp M, xã T, thành phố M, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện về việc yêu cầu xin ly hôn, tại biên bản hòa giải ngày 18 tháng 9 năm 2018 và tại phiên tòa, chị Bùi Kim T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh H chung sống với nhau vào năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh C. Trong quá trình chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do anh H mê chơi game, không chăm lo cho vợ con. Chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh H vẫn không bỏ dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Hiện nay chị nhận thấy không còn tình cảm với anh H và không thể tiếp tục chung sống với anh H được nữa nên chị yêu cầu được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Chị T xác định giữa chị và anh H có 01 người con chung tên Giang Phương N, sinh ngày 14/5/2009, Hiện cháu Nhi đang sống với chị T. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy cháu N, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị T khai vợ, chồng không nợ ai và không ai nợ lại vợ, chồng.

* Tại bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 18 tháng 9 năm 2018 anh Giang Văn H trình bày:

- Về hôn nhân: Thời gian chung sống, nơi đăng ký kết hôn đúng như chị T trình bày, anh thừa nhận trong thời gian chung sống anh có chơi game không chăm lo cho vợ con nhưng nay anh đã nhận ra được sai lầm của mình và hứa sẽ sửa chữa. Ngoài việc anh mê chơi không chăm lo cho vợ con thì giữa vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn. H nay anh vẫn còn thương vợ và mong muốn được hàn gắn nên anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị T.

- Về con chung: Anh H xác định giữa anh và chị T có 01 người con chung tên Giang Phương Nhi, sinh ngày 14/5/2009, Hiện cháu N đang sống với chị T, trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn anh đồng ý giao con cho chị T tiếp tục nuôi dạy, anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Anh H xác định không có, không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Anh H xác định vợ chồng không có nợ ai và cũng không ai nợ lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Cà Mau theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Giang Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập xét xử của tòa án nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Bùi Kim T và anh Giang Văn H xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phong Điền, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nên hôn nhân được chấp nhận là hợp pháp và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quá trình chung sống theo chị T trình bày vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã nhau nguyên nhân do anh H ham chơi, không chăm lo cho vợ con, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. H naychị xác định không còn tình cảm với anh H, không thể tiếp tục chung sống được nữa nên chị yêu cầu được ly hôn với anh H. Tại bản tự khai và tại biên bản hòa giải ngày 18/9/2018 anh H cho là vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, bản thân anh có ham chơi nhưng H nay anh đã sửa chữa và hứa sẽ thay đổi chăm lo cho vợ con. Mặc khác H tại anh vẫn còn thương vợ nên mong muốn được hàn gắn, anh không đồng ý ly hôn theo như yêu cầu của chị T.

Xét thấy quan hệ hôn nhân là sự tự nguyện từ cả hai nên trong cuộc sống vợ chồng cần phải có sự xây dựng và dung hòa của cả vợ và chồng, nhưng H nay phía chị T đã cương quyết yêu cầu ly hôn mặc dù tại phiên hòa giải đã động viên để hàn gắn nhưng không thành. Về phía anh H mong muốn được hàn gắn nhưng không đưa ra được giải pháp để thuyết phục chị T, mặc khác anh không đến tham gia phiên tòa xét xử cho thấy bản thân anh chưa có thiện chí để duy trì mối quan hệ hôn nhân này. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử thấy rằng tình cảm của chị T đối với anh H đã không còn và chị T xác định nếu Tòa án không chấp nhận cho ly hôn thì chị cũng không thể chung sống với anh H được nữa. Hội đồng xét xử có xem xét đến nguyện vọng của anh H là được hàn gắn nhưng xét thấy mối quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh H đã rạn nứt không thể duy trì và tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị T được ly hôn với anh H.

[4] Về con chung: Chị T và anh H xác định có 01 người con chung tên Giang Phương Nhi, sinh ngày 14/5/2009, H cháu Nhi đang sống với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con, anh H cũng thống nhất giao cháu Nhi cho chị T tiếp tục nuôi dạy. Xét thấy đây là sự tự nguyện của anh, chị và không trái đạo đức xã hội nên được chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự xác định không yêu cầu nên hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

[6] Về tài sản chung: Chị T và anh H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về nợ chung: Chị T và anh H khai vợ chồng không nợ ai và không ai nợ lại anh chị nên không đặt ra xem xét.

[8] Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 147, 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Bùi Kim T được ly hôn với anh Giang VănH.

Về con chung: Giao cháu Giang Phương N, sinh ngày 14/5/2009 cho chị Bùi Kim T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng đối với anh H.

Anh Giang Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Không xem xét.

Về nợ chung: Anh H, chị T khai không có, không xem xét.

Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình: Chị Bùi Kim T phải nộp số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 18/7/2018, Chị T đã nộp tiền tạm ứng án phí là 300.000đ theo biên lai số 0002692 Tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được chuyển thu.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực H theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Chị Bùi Kim T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Giang Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 198/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:198/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:12/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về