Bản án 197/2020/HS-ST ngày 19/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N T - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 197/2020/HS-ST NGÀY 19/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N T, tỉnh Khánh Hòa, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 259/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 223/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị D H (Tên gọi khác: Út), sinh năm 1983 tại tỉnh T T H; Nơi cư trú: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 2/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H1 (đã chết), con bà Phạm Thị H2, sinh năm 1955:

Tiền sự: Không, Tiền án:

- Bản án số 109/2008/HSST ngày 09/5/2008 của Tòa án nhân dân thành phố N T xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/7/2008, đã thi hành phần án phí theo biên lai số 404 ngày 25/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N T:

- Bản án số 152/2009/HSST ngày 16/6/2009 của Tòa án nhân dân thành phố N T xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/3/2010.

- Bản án số 282/2012/HSST ngày 28/11/2012 của Tòa án nhân dân thành phố N T xử phạt 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/4/2018.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/02/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Trần Hữu S, sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn V1, xã V, thành phố N T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 13/02/2020, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố N T trong khi tuần tra tại khu vực tổ 19 P1, phường P, N T, phát hiện Nguyễn Thị D H có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên yêu cầu xuất trình giấy tờ tùy thân để kiểm tra. H không xuất trình được và tự lấy từ trong người ra giao nộp một gói nilon hàn kín, bên trong chứa 10 đoạn ống hút nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong những ống hút nhựa này có chứa chất bột nén màu trắng giao nộp và khai đây là ma túy heroine. Tổ công tác tiến hành thu giữ, niêm phong tang vật ký hiệu A và mời H về trụ sở làm việc.

Tại Cơ quan điều tra, H khai số ma túy Heroine bị thu giữ trên là H vừa mua của một nam thanh niên tên gọi Cu lõi (không rõ nhân thân lai lịch) tại 19 P1, phường P, thành phố N T, số lượng 10 tép ma túy Heroine với giá 400.000 đồng để sử dụng cho bản thân.

Tại Bản Kết luận giám định số 118/GĐTP/2020 ngày 19/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận: Chất bột nén màu trắng trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3196g, là Heroine.

Tại bản cáo trạng số 141/CT-VKS ngày 05/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N T đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị D H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N T đã giữ nguyên kết luận truy tố bị cáo Nguyễn Thị D H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Thị D H, tuyên phạt bị cáo từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù.

Bị cáo Nguyễn Thị D H khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người làm chứng, xét thấy người làm chứng đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt của người làm chứng không trở ngại cho việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người này theo quy định tại và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, tuy tố, thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tung. Vì vậy, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Theo cáo trạng truy tố cho thấy, tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng truy tố phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N T, các vật chứng thu giữ được, đủ cơ sở để xác định: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 13/02/2020, tại khu vực tổ 19 P1, phường P, thành phố N T, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra – Công an thành phố N T phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Thị D H đang tàng trữ trái phép 0,3196g ma túy là loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Do đó, hành vi của Nguyễn Thị D H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 (viện dẫn điểm c khoản 1 Điều 249) Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N T đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã tàng trữ ma túy là loại Heroine một cách trái phép để sử dụng, đây là chất gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến trật tự địa phương. Tệ nạn ma túy đang là hiểm họa lớn đối với toàn xã hội, gây tác hại xấu cho sức khỏe con người, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân và làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Ngoài ra, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đã xâm phậm đến chế độ quản lý độc quyền về các chất ma túy của nhà nước. Bản thân bị cáo có 03 tiền án về tội cố ý, trong đó có 02 tiền án chưa được xóa án tích nhưng tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên hành vi phạm tội lần này được xác định là “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy nên tuyên bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội và thể hiện được tính khoan hồng của pháp luật.

Đối với người thanh niên tên gọi “Cu lõi” đã bán ma túy cho Nguyễn Thị D H hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N T đang tiếp tục xác minh, làm rõ, khi có đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào: Điểm khoản 2 Điều 249 (viện dẫn điểm c khoản 1 Điều 249), điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị D H:

[2] Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị D H 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 13/02/2020.

[3]Về án phí:Áp dụng Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 197/2020/HS-ST ngày 19/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:197/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về