Bản án 196/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 196/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 178/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2020/QĐXXST-HS ngày 27/10/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Mạnh T1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 19/3/19xx, tại Cẩm Phả, Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Tổ xx, khu Q, phường Đ, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Đình H1 (đã chết) và bà: Nguyễn Thị T2 (đã chết); Vợ: La Thị Yến, con: chưa có; Tiền án: có 03 tiền án: - Ngày 11/11/2004 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Cẩm Phả xử phạt 27 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 14/3/ 2005 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Cẩm Phả xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung theo bản án số 55/2005/HSST ngày 14/3/2005 là 57 tháng tù. Ngày 16/9/2009, chấp hành xong án phạt tù. Đã thi hành xong phần dân sự của bản án. Ngày 22/12/2010 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Cẩm Phả xử phạt 27 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 08/02/2013 chấp hành xong án phạt tù. Ngày 16/9/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 19/01/2020, chấp hành xong án phạt tù. Nhân thân: Nguyễn Mạnh T1 là đối tượng trộm cắp, nghiện ma túy ngày 08/7/2002, bị UBND tỉnh Quảng Ninh áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở giáo dục thời gian 24 tháng. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 25/7/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Quảng Ninh – Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Anh Nguyễn Quang M – Sinh năm: 19xx; Địa chỉ: Tổ xx, khu xx, phường O, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh – Vắng mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Anh Lê Văn D và anh Bùi Đình H2 – Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T1 liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Mạnh T1 chấp hành xong bản án ngày 19/01/2020, trở về địa phương không có việc làm và thu nhập ổn định, khoảng 13h 15’ ngày 25/7/2020, Nguyễn Mạnh T1 đi bộ đến ngã tư tổng hợp thuộc phường Cẩm Đông, thành phố Cẩm Phả thì gặp đối tượng tên X (Sỉn) không rõ lai lịch cụ thể, là bạn tù trước đây, cả hai rủ nhau đi đến khu vực tổ x, khu T, phường B, thành phố Cẩm Phả xem có ai sơ hở tài sản thì trộm cắp bán lấy tiền ăn tiêu. Sau đó cả hai cùng đi đến một lán dựng tạm tại tổ x, khu T, phường B, thành phố Cẩm Phả dùng để cho thợ xây ở, cửa lán không khóa thì cả hai thống nhất T1 đi vào trộm cắp còn X đứng ngoài cảnh giới. T1 vào trong lán nhìn thấy trên sạp gỗ có 01 chiếc điện thoại Iphone 7 plus, màu đen đang cắm sạc dự phòng nên đã rút sạc ra và đút vào túi quần. T1 tiếp tục lật chăn trên giường thì thấy có 01 chiếc ví da màu đen nên lấy cho vào túi quần sau rồi đi ra ngoài để tẩu thoát. Khi vừa ra khỏi lán thì bị người dân phát hiện hô hoán, cùng lúc đó lực lượng Công an đến bắt quả tang và thu giữ trong người của T1: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, loại 32GB, không gắn sim số đã qua sử dụng. Mặt sau có ghi số IC:

579C-E3092A; 01 chiếc ví giả da màu đen đã qua sử dụng bên trong có số tiền 2.430.000 đồng và 01 chứng minh thư nhân dân số: 100504103 mang tên Nguyễn Quang M.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 45/KL-HĐĐGTX ngày 30/7/2020, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Cẩm Phả, kết luận: 01 chiếc điện thoại di dộng Iphone 7 Plus loại 32 GB màu đen đã qua sử dụng, mua mới tháng 01/2018 định giá 4.500.000 đồng, 01 chiếc ví giả da màu đen đã qua sử dụng, mua mới tháng 12/2019 giá định giá là 100.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại các tài sản T1 trộm cắp được cho anh Nguyễn Quang M.

Bản cáo trạng số 176/CT-VKSCP ngày 01/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh T1 về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Mạnh T1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu, bị cáo đã bàn bạc với đối tượng tên X (Sỉn) thực hiện việc trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Quang M tại lán dành cho thợ xây ở khu vực tổ x, khu T, phường B, thành phố Cẩm Phả, mục đích để bán lấy tiền ăn tiêu nhưng sau khi trộm cắp được tài sản ra đến cửa lán thì bị phát hiện và bị công an bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng. Bị cáo thừa nhận có 03 tiền án và có nhân thân xấu đúng như phần lý lịch của bị cáo đã nêu. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan. Hiện bị cáo có hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn nên mong được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Anh Nguyễn Quang M – là người bị hại trong vụ án có lời khai tại hồ sơ vụ án cụ thể như sau: Anh làm công việc phụ xây theo ngày cho nhà anh K thuộc tổ x, khu T, phường B, thành phố Cẩm Phả. Vào khoảng 13 giờ 10 phút ngày 25/7/2020, sau khi nghỉ ngơi tại lán anh sang nhà dân gần đó để xin nước uống, anh có để một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen đang cắm sạc, 01 ví da màu đen bên trong có 2.430.000 đồng và 01 chứng minh thư nhân dân của anh trên phản trong lán. Khoảng 13 giờ 30 cùng ngày, nghe thấy tiếng hô “Trộm, trộm” anh chạy về hướng lán nghỉ thì thấy lực lượng công an và người dân xung quanh đang bắt quả tang một người đàn ông khoảng 35 tuổi, tại cơ quan điều tra anh biết đó là Nguyễn Mạnh T1 là người đã trộm cắp tài sản của anh. Anh Minh đã được Cơ quan điều tra trả lại điện thoại, 2.340.000 đồng, ví giả da và 01 chứng minh nhân dân và không có quan điểm gì khác. Anh đề nghị xử lý vụ án theo quy định pháp luật.

Người làm chứng là anh Lê Văn D và anh Bùi Đình H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 25/7/2020 các anh chứng kiến việc Công an và người dân đang bắt giữ bị cáo T1 vì có hành vi trộm cắp tài sản là điện thoại di động Iphone 7 Plus, 2.340.000 đồng, ví giả da và 01 chứng minh nhân dân của anh Nguyễn Quang M và còn chứng kiến cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: ¸p dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Nguyễn Mạnh T1 từ 30 (ba mươi) đến 36 (ba sáu) tháng tù, thời hạn tù kể từ ngày 25/7/2020.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo thấy ân hận với hành vi phạm tội của mình nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đến mức thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T1 liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh T1 đều không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người bị hại và những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do: Xét thấy quá trình điều tra đã có đầy đủ lời khai, ý kiến của người bị hại và người làm chứng, nên việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào điều 292, 293 Bộ Luật TTHS, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của những người vắng mặt tại phiên tòa trong quá trình điều tra.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Mạnh T1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bản cáo trạng, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 14 giờ 00 phút ngày 25/7/2020; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản ảnh hiện trường; Biên bản niêm phong đồ vật, T1 liệu bị tạm giữ; Bản ảnh vật chứng; Bản ảnh xác định địa điểm; Biên bản và bản ảnh thực nghiệm điều tra; Biên bản về việc trả lại đồ vật; Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 45 ngày 30/7/2020; Ngoài ra lời khai của bị cáo còn phù hợp với lời khai của người bị hại và những người làm chứng cùng với các T1 liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 25/7/2020, tại tổ x, khu T, phường B, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Mạnh T1 đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus trị giá 4.500.000 đồng, 01 chiếc ví da trị giá 100.000 đồng, bên trong ví có số tiền mặt là 2.430.000 đồng và 01 chứng minh nhân dân của anh Nguyễn Quang M. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 7.030.000 đồng.

Hành vi phạm tội bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã có 03 tiền án, tại bản án hình sự sơ thẩm số 174/2013/HSST ngày 16/9/2013 của Tòa án thành phố Cẩm Phả đã xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng, ngày 19/01/2020, chấp hành xong bản án chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản” nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả đã truy tố nên chấp nhận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác đã được pháp luật bảo vệ, mà còn xâm phạm đến trật tự công cộng, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản, gây bất bình trong xã hội. Bị cáo ý thức được tài sản của người khác là bất khả xâm phạm nhưng do thiếu rèn luyện, lười lao động nên đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhằm mục đích đem bán để lấy tiền ăn tiêu, vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm để cải tạo giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu lại có 03 tiền án nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm lại tiếp tục phạm tội chứng tỏ bị cáo thiếu ý thức rèn luyện bản thân. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng xem xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tài sản trộm cắp đã được trả lại cho người bị hại, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Nhưng dù xem xét đến đâu cũng cần bắt bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian là phù hợp với tính chất mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: tài sản bị cáo trộm cắp đã kịp thời được thu hồi để trả lại cho người bị hại, người bị hại không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu hồi vật chứng là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, loại 32GB, không gắn sim số đã qua sử dụng. Mặt sau có ghi số IC: 579C-E3092A; 01 chiếc ví giả da màu đen đã qua sử dụng bên trong có số tiền 2.430.000 đồng và 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Quang M, đã trả lại cho người bị hại trong quá trình điều tra nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với X (Sỉn), bị cáo khai cùng thực hiện hành vi trộm cắp với bị cáo, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lý lịch nên không có căn cứ làm rõ.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mạnh T1 phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Mạnh T1 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 25/7/2020).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh T1 phải nộp: 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt: bị cáo, vắng mặt: người bị hại. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 196/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:196/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về