Bản án 196/2019/HSST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 196/2019/HSST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 206/2019/HSST ngày 07 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 224/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Anh Đ, giới tính: Nam, sinh năm 1997 tại tỉnh B; Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: ấp T 01, xã TL, huyện ĐP, tỉnh BP; Quốc tịch : Việt Nam; dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: buôn bán; con ông Nguyễn Phi H (đã chết) và bà Trần Thị L (sinh năm 1969) ; Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: không. Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày 07/8/2019 (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 09 giờ ngày 07/8/2019, Công an Phường X, quận Gò Vấp kết hợp Đội CSĐTTP về TTXH, Công an quận Gò Vấp tiến hành kiểm tra phòng thuê nhà số 71/20 đường Lê Văn Thọ, Phường 8, quận Gò Vấp phát hiện Nguyễn Anh Đ đang cất giữ 02 hộp giấy màu đen bên trong có: 01 gói ny lon chứa tinh thể không màu, 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng (Đ khai là ma túy tổng hợp) và một số dụng cụ sử dụng ma túy nên đã bắt giữ và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang .

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Anh Đ khai nhận hành vi phạm tội như sau: Ngày 18/7/2019 Đ một mình đi xe máy biển số 93M1 – 237.36 đến khu vực đường Trường Chinh quận Tân Bình gặp một người phụ nữ bán thuốc lá trên vỉa hè (chưa rõ lai lịch) và hỏi mua dụng cụ sử dụng ma túy (nỏ thủy tinh) và ma túy tổng hợp, người phụ nữ này đồng ý và bán cho Đ dụng cụ sử dụng ma túy và cho Đ số điện thoại để liên hệ mua ma túy. Sau đó, Đ dùng điện thoại di động của mình số 0364012345 gọi vào số điện thoại vừa được cho gặp một thanh niên (chưa rõ lai lịch) hỏi mua 500.000 đồng ma túy tổng hợp (hàng đá). Người thanh niên này đồng ý bán và hẹn giao nhận ma túy tại khu vực đường Cống Lỡ, quận Tân Bình. Sau đó, Đ đi xe máy đến nơi hẹn gặp 01 thanh niên và nhận một gói nylon chứa ma túy tổng hợp và đưa cho người thanh niên này 500.000đồng. Sau khi mua ma túy xong, Đ mang ma túy về phòng thuê nhà số 71/20 Lê Văn Thọ, phường 8, quận Gò Vấp lấy ra một ít cho vào nỏ thủy tinh vừa mua rồi sử dụng một mình. Sau khi sử dụng ma túy, số ma túy còn lại Đ cất giấu vào một hộp giấy màu đen rồi để dưới gầm bàn cạnh giường ngủ trong phòng của Đ cùng với bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Đến ngày 20/7/2019, Đ dùng điện thoại của mình gọi vào số 0708567855 gặp một thanh niên tên Mập (chưa rõ lai lịch) hỏi mua ma túy tổng hợp (khay) với giá tiền 3.000.000 đồng. Mập đồng ý bán và hẹn gặp Đ tại phòng thuê của Đ để giao ma túy và nhận tiền. Sau đó, Mập đến phòng thuê của Đ và đưa cho Đ một gói nylon chứa ma túy tổng hợp (khay) và nhận số tiền 3.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Đ đổ một ít ma túy ra một đĩa sứ màu trắng rồi dùng thẻ nhựa và ống hút được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng để sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong, số ma túy còn lại Đ cất giấu vào một hộp giấy màu đen rồi để vào ngăn kéo thứ nhất của tủ quần áo trong phòng ở của Đ, còn chiếc đĩa sứ, thẻ nhựa và ống hút được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng Đ cất vào ngăn kéo thứ tư của tủ quần áo. Sau đó, thỉnh thoảng Đ lấy ma túy sử dụng một mình và cất giữ nguyên như vậy. Đến ngày 04/8/2019 thì có Nguyễn Trương Khả Luân đến ở cùng với Đ để phụ giúp việc nhà. Đ cho Luân ở một phòng riêng và không nói gì cho Luân biết về việc mua và cất giấu ma túy trong phòng để sử dụng. Đến khoảng 09 giờ ngày 07/8/2019 thì Công an đến kiểm nơi ở của Đ và phát hiện ma túy như đã nêu trên (BL:67-82).

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 hộp giấy màu đen đựng một gói nylon chứa tinh thể không màu (m1) và 01 hộp giấy màu đen đựng một gói nylon chứa tinh thể màu trắng (m2), đã được niêm phong thành một gói bên ngoài có chữ kí ghi tên Nguyễn Anh Đ và hình dấu của Công an Phường 8, quận Gò Vấp. Tại bản Kết luận giám định số: 1569/KLGĐ-H ngày 12/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu (m1) cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6534gr, loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng được ký hiệu (m2) cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,4247gr, loại Ketamine.

- 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa; Một đĩa sứ hình tròn màu trắng, một thẻ nhựa và 01 ống hút được cuộn tròn bằng tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng (Đ dùng để sử dụng ma túy).

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số sim 0364012345 (Đ dùng liên lạc mua ma túy); 01 côn nhị khúc bằng gỗ; 01 thanh đao bằng kim loại dài khoảng 60cm (Đ mua nhằm mục đích trưng bày).

- 01 xe máy biển số: 93M1 – 237.36, có số khung 189803, số máy 1543884, qua xác minh do Nguyễn Anh Đ đứng tên chủ quyền. Đ khai chiếc xe trên do mẹ Đ là bà Trần Thị L mua và để Đ đứng tên chủ sở hữu. Tại Cơ quan điều tra bà Liễu cho biết bà mua chiếc xe trên cho Đ đứng tên chủ sở hữu để Đ có phương tiện đi làm, việc Đ sử dụng xe đi mua ma túy bà không biết (BL:83-90).

Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp đã có Công văn gởi công ty điện thoại Mobifone để xác minh chủ thuê bao số 0708567855 nhưng đến nay vẫn chưa có thông tin phản hồi.

Đối với đối tượng tên Mập và người phụ nữ bán ma túy cho Đ, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch nên chưa có cơ sở để xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp đã nhập kho vật chứng 02 gói ma túy; 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa; Một đĩa sứ hình tròn màu trắng; một thẻ nhựa và 01 ống hút được cuộn tròn bằng tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone; 01 côn nhị khúc bằng gỗ; 01 thanh đao bằng kim loại dài khoảng 60cm; 01 xe máy biển số 93M1 - 23736 theo phiếu nhập kho số:191/PNK ngày 30/9/2019 (BL:21).

Tại bản cáo trạng số 195/Ctr-VKS, ngày 05/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Anh Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp sau khi phân tích nội dung vụ án, những tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, các tình tiết định tội, định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh Đ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy thu giữ; 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa; Một đĩa sứ hình tròn màu trắng, một thẻ nhựa.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 ống hút được cuộn tròn bằng tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số sim 0364012345; 01 xe máy biển số: 93M1 – 237.36, có số khung 189803, số máy 1543884, - Trả lại cho bị cáo 01 côn nhị khúc bằng gỗ; 01 thanh đao bằng kim loại dài khoảng 60 cm.

Qua ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát bị cáo nhất trí và không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Kết luận giám định số: 1569/KLGĐ-H ngày 12/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận: 01 hộp giấy màu đen đựng một gói nylon chứa tinh thể không màu (m1) và 01 hộp giấy màu đen đựng một gói nylon chứa tinh thể màu trắng (m2), đã được niêm phong thành một gói bên ngoài có chữ kí ghi tên Nguyễn Anh Đ và hình dấu của Công an Phường 8, quận Gò Vấp. Tinh thể không màu được ký hiệu (m1) cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6534gr, loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng được ký hiệu (m2) cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,4247gr, loại Ketamine.

Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Anh Đ đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 như Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ ma túy là chất độc hại gây nghiện ảnh hưởng đến sức khỏe con người và ảnh hưởng đến sự phát triển cộng đồng xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia gây mất trật tự trị an còn ảnh hưởng đến kinh tế gia đình và xã hội. Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng ma túy là thể hiện ý thức bị cáo rất xem thường pháp luật nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đối với chủ thuê bao số điện thoại 0708567855, cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp đã có Công văn gởi công ty điện thoại Mobifone để xác minh nhưng đến nay vẫn chưa có thông tin phản hồi. Đối với đối tượng tên Mập và người phụ nữ bán ma túy cho Đ, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch nên chưa có cơ sở để xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 hộp giấy màu đen đựng một gói nylon chứa tinh thể không màu (m1) và 01 hộp giấy màu đen đựng một gói nylon chứa tinh thể màu trắng (m2), đã được niêm phong thành một gói bên ngoài có chữ kí ghi tên Nguyễn Anh Đ và hình dấu của Công an Phường 8, quận Gò Vấp giám định là ma túy ở thể rắn là ma túy tổng hợp Nhà nước cấm lưu hành nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.

- 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa; Một đĩa sứ hình tròn màu trắng, một thẻ nhựa là công cụ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội không có giá trị nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy - 01 ống hút được cuộn tròn bằng tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, bị cáo dùng để sử dụng ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số sim 0364012345 bị cáo dùng liên lạc mua ma túy nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 côn nhị khúc bằng gỗ; 01 thanh đao bằng kim loại dài khoảng 60cm, bị cáo mua nhằm mục đích trưng bày không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.

- 01 xe máy biển số: 93M1 – 237.36, có số khung 189803, số máy 1543884, qua xác minh do Nguyễn Anh Đ đứng tên chủ quyền. Đ khai chiếc xe trên do mẹ Đ là bà Trần Thị Liễu mua và để Đ đứng tên chủ sở hữu. Tại Cơ quan điều tra bà Liễu cho biết bà mua chiếc xe trên cho Đ đứng tên chủ sở hữu để Đ có phương tiện đi làm, Đ đã sử dụng xe làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2019 Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và khỏan 1, 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 hộp giấy màu đen đựng một gói nylon chứa tinh thể không màu (m1) và 01 hộp giấy màu đen đựng một gói nylon chứa tinh thể màu trắng (m2), đã được niêm phong thành một gói bên ngoài có chữ kí ghi tên Nguyễn Anh Đ và hình dấu của Công an Phường 8, quận Gò Vấp; 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa; Một đĩa sứ hình tròn màu trắng, một thẻ nhựa. - Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 ống hút được cuộn tròn bằng tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số sim 0364012345; 01 xe máy biển số: 93M1 – 237.36, có số khung 189803, số máy 1543884, - Trả lại cho bị cáo 01 côn nhị khúc bằng gỗ; 01 thanh đao bằng kim loại dài khoảng 60 cm.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 191/PNK ngày 30/9/2019 của Công an quận Gò Vấp) Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ngày 25/11/2015 của Quốc Hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 196/2019/HSST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:196/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về