Bản án 196/2019/HNGĐ-ST ngày 16/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 196/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 574/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2019 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 212/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H sinh năm 1967; Địa chỉ: Thôn A, xã A1, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Khắc T sinh năm 1962; Địa chỉ: Thôn A, xã A1, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 15 tháng 7 năm 2019 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, bà Nguyễn Thị H (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương năm 1990, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A1, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 81 ngày 22/7/2002. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống tại Thôn A, xã A1, huyện T1, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2015 vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, lối sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xung đột, cãi nhau, không thể hòa giải và dung hòa được và không thể sống chung được. Gia đình hai bên cùng bạn bè đã tiến hành hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Khắc T.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T có bốn con chung tên là Trần Thị H1 sinh ngày 30/10/1991, Trần Văn T2 sinh ngày 02/5/1993, Trần Văn D sinh ngày 07/12/1994 và Trần Mạnh T3 sinh ngày 23/7/2006. Hiện ba con tên là Trần Thị H1, Trần Văn T2, Trần Văn D đã thành niên, khỏe mạnh và có khả năng lao động nuôi bản thân nên khi ly hôn không có đề nghị gì. Con Trần Mạnh T3 đang khỏe mạnh và phát triển bình thường. Điều kiện nuôi con của bà tốt, khi ly hôn bà đề nghị được nuôi con Trần Mạnh T3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, bà đề nghị để bà và ông Trần Khắc T tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T có tài sản chung, bà không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.

Trong bản tự khai đề ngày 23 tháng 7 năm 2019 cùng các lời khai với Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, ông Trần Khắc T (bị đơn) trình bày:

Ông Trần Khắc T thừa nhận toàn bộ lời trình bày của bà Nguyễn Thị H về việc kết hôn là đúng. Theo ông vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ có thỉnh thoảng xảy ra xô xát nhỏ do va chạm trong cuộc sống hàng ngày. Do ông có nóng tính nên có một vài lần có đánh bà Nguyễn Thị H. Nay bà Nguyễn Thị H xin ly hôn ông không đồng ý ly hôn vì mong muốn vợ chồng đoàn tụ mà ông chỉ đồng ý ly thân. Về con chung, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung ông có quan điểm như bà Nguyễn Thị H đã trình bày.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị của bị đơn, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Về các tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án:

Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà đương sự giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được nên thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản chung vợ chồng đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề phải chứng minh.

Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số 81 ngày 22/7/2002 của Ủy ban nhân dân xã A1, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến đầu năm 2015 thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, lối sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xung đột, cãi nhau, không thể hòa giải và dung hòa được và không thể sống chung được. Gia đình hai bên cùng bạn bè đã tiến hành hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên bà Nguyễn Thị H xin ly hôn với ông Trần Khắc T và ông Trần Khắc T không đồng ý ly hôn, chỉ đồng ý ly thân. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H với ông Trần Khắc T.

[3] Về con chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T có bốn con chung tên là Trần Thị H1 sinh ngày 30/10/1991, Trần Văn T2 sinh ngày 02/5/1993, Trần Văn D sinh ngày 07/12/1994 và Trần Mạnh T3 sinh ngày 23/7/2006. Hiện ba con tên là Trần Thị H1, Trần Văn T2, Trần Văn D đã thành niên, khỏe mạnh và có khả năng lao động nuôi bản thân nên khi ly hôn không có đề nghị gì. Khi ly hôn bà Nguyễn Thị H đề nghị được nuôi con chung Trần Mạnh T3 và ông Trần Khắc T đồng ý với quan điểm của bà Nguyễn Thị H. Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện bà Nguyễn Thị H có điều kiện, khả năng và thời gian để chăm sóc con chung tốt, con chung khỏe mạnh và phát triển bình thường, có nguyện vọng ở với mẹ. Vì vậy áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung Trần Mạnh T3 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Trần Mạnh T3 sinh ngày 23/7/2006 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Khắc T không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà Nguyễn Thị H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0002801 ngày 23 tháng 7 năm 2019; Bà Nguyễn Thị H đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H, ông Trần Khắc T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 196/2019/HNGĐ-ST ngày 16/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:196/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về