Bản án 196/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 196/2018/HS-ST NGÀY 29/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 172/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2018, đối với các bị cáo:

1. Họ tên: Nguyễn Ngọc H - sinh năm 1977 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 30/185 đường B, phường T, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Ngọc V (đã chết) và bà: Lê Thị Kim T; có vợ: Trần Thị T1 và 01 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 22- 11-2017, Công an phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23-3-2018, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ tên: Nguyễn Hữu L - sinh năm 1973 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 184 đường T, phường D, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hữu D (đã chết) và bà: Trần Thị L; chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22-3-2013 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23-3-2018, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Anh Lã Anh A, anh Vũ Ngọc C (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23-3-2018, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà nghỉ T, đường N, phường L, thành phố Đ phát hiện Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L đang đứng cạnh chiếc xe máy điện BKS: 18MĐ1- 03945 có biểu hiện nghi vấn nên tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, H đã tự giác giao nộp từ tay phải 01 túi nilong màu trắng. Tổ công tác đã mời người làm chứng chứng kiến việc mở kiểm tra bên trong thấy có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (H khai là ma túy đá của H và L). Kiểm tra L phát hiện và thu giữ trong túi áo bên trái 01 đoạn ống nhựa màu trắng (L khai đó là chiếc tẩu để sử dụng ma túy đá). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong gói ma túy trên rồi đưa H và L cùng người làm chứng về trụ sở Công an thành phố Nam Định lập biên bản bắt người có hành vi phạm pháp quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của H 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu xanh đen (đã cũ), tạm giữ của L 01 chiếc xe máy điện BKS: 18MĐ1- 03945 và 01 điện thoại di động (đã cũ).

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 260/GĐKTHS ngày 27-3-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L là ma túy, loại chất ma túy là: Methamphetamine, có khối lượng 0,558 gam (không phẩy năm trăm năm mươi tám gam).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để cùng sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 23-3-2018, H ở nhà gọi điện thoại cho một người tên là T1 (không rõ lai lịch, địa chỉ) và hỏi T1 đổi 01 giỏ lan lấy 01 gói ma túy đá. T1 đồng ý và hẹn H ra khu vực trước cửa nhà nghỉ T, đường N, phường L, thành phố Đ để trao đổi. Khoảng 12 giờ cùng ngày, H cầm giỏ lan sang nhà L bảo L cùng với H đi đổi giỏ lan lấy ma túy về để cả hai cùng sử dụng. L đồng ý rồi lấy xe máy điện chở H đến trước cửa nhà nghỉ T, đường N, phường L, thành phố Đ. Khi đến nơi H mượn máy điện thoại của L để gọi cho T1 (máy điện thoại của H vừa bị rơi hỏng) nhưng chưa kịp gọi thì H và L thấy có một nam thanh niên (không rõ lai lịch) đến đưa cho H 01 gói ma túy đá rồi cầm giỏ lan đi. H cầm gói ma túy trong tay phải còn L đang định chở H về để tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Chiếc xe máy điện BKS: 18MĐ1- 03945 (đã cũ) L khai mượn của chị gái là chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1970, trú tại: Số 186 đường T, phường D, thành phố Đ (chị N không biết việc L sử dụng xe đi mua ma túy) nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị N.

Đối với đối tượng đã cung cấp gói ma túy cho Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L, tài liệu Cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Bản cáo trạng số 188/CT-VKSTPNĐ ngày 29-5-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L tại phiên tòa thể hiện hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu L từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L nói lời sau cùng: Xin Hội đồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

 [2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23-3-2018, Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,558 gam Methamphetamine mục đích để cùng sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang tại khu vực trước cửa nhà nghỉ T, đường N, phường L, thành phố Đ. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; khối lượng Heroine các bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 0,588 gam nên các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2015).

Về cá thể hóa hình phạt: Các bị cáo cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội nên thuộc trường hợp đồng phạm. Xét vai trò của từng bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: bị cáo Nguyễn Ngọc H là người khởi xướng và chuẩn bị giỏ lan để đổi lấy ma túy nên xếp vai trò đầu vụ, bị cáo Nguyễn Hữu L là người chuẩn bị phương tiện để hai bị cáo đi đổi ma túy nên xếp vai trò thứ hai.

 [3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi thực hiện tội phạm, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Riêng đối với bị cáo Nguyễn Ngọc H, gia đình bị cáo có công với cách mạng, bố bị cáo được tặng thưởng bằng khen trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

 [4] Về hình phạt:

Bị cáo Nguyễn Ngọc H xếp vai trò đầu vụ và có 01 tiền sự về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo Nguyễn Hữu L xếp vai trò thứ hai và có 01 nhân thân về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vì vậy mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Ngọc H sẽ nặng hơn đối với bị cáo Nguyễn Hữu L.

 [5] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

 [6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành và một đoạn ống nhựa màu trắng xét không có giá trị sử dụng nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen (đã cũ) tạm giữ của Nguyễn Ngọc H và 01 điện thoại đi động màu đen (đã cũ) tạm giữ của Nguyễn Hữu L xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử sẽ trả lại cho bị cáo, song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

 [7] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H 18 tháng tù (Mười tám tháng tù).

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 23-3-2018.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu L 15 tháng tù (Mười lăm tháng tù).

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 23-3-2018.

2. Xử lý vật chứng:

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: số ma túy và một đoạn ống nhựa màu trắng đã thu giữ. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc H 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen (đã cũ), song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu L 01 điện thoại di động màu đen (đã cũ), song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

 (Vật chứng có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28-5- 2018).

3. Án phí:

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Bị cáo Nguyễn Ngọc H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Hữu L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Các bị cáo Nguyễn Ngọc H và Nguyễn Hữu L được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 196/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:196/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về