TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 195/2020/HSST NGÀY 17/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, Tòa án tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 198/2020/HSST, ngày 10/8/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 183/2020/HSST-QĐ, ngày ngày 01/9/2020 đối với các bị cáo:
1.Nguyễn Quang H, sinh năm 1989 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã Hố Nai 3, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Thợ mộc; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1954 và bà Trần Thị M, sinh năm 1961; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt.
2. Phạm Đình T, sinh năm 1993 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã Hố Nai 3, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn L, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1969; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt.
3. Hà Minh Quân, sinh năm 1997 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã Hố Nai 3, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Đăng T1, sinh năm 1971 và bà Đỗ Thị Thanh V, sinh năm 1971; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt.
4.Trần Văn H2, sinh năm 2001 tại Thanh Hóa. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Tạm trú: Ấp N, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn H3, sinh năm 1982 và bà Nguyễn Thị H4 sinh năm 1982; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt.
5. Nguyễn Đức T2, sinh năm 2000 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình H5, sinh năm 1966 và bà Lê Thị H6, sinh năm 1972; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt.
6. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 2001 tại Thanh Hóa. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 1, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; Tạm trú: Ấp N, xã Hố Nai 3, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị X; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt.
7. Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1997 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn K (đã chết) và bà Cao Thị C1, sinh năm 1972; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt.
8. Mai Thị T3, sinh năm 1981 tại Bạc Liêu. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp V, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang. Tạm trú: Ấp N, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Nội trợ; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo:
Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mai Văn T4 (đã chết) và bà Kha Thị N, sinh năm 1950; Có chồng là Phạm Hoàng T5, sinh năm 1979; Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2002 – nhỏ nhất sinh năm 2009; án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chạn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng cuối tháng 3/2020, Nguyễn Quang H nói với Mai Thị T3 cho H cùng một số đối tượng đến nhà trọ của T3 tại ấp N, xã H, huyện T để đánh bạc thắng thua bằng hình thức xóc đĩa. Mỗi lần đánh bạc xong thì mỗi con bạc sẽ đưa cho T3 từ 10.000đ đến 30.000đ tiền xâu, T3 đồng ý. H và các con bạc đã đánh bạc tại nhà trọ của T3 được 03 lần và các con bạc đã đưa cho T3 tổng cộng 300.000đ tiền xâu. Khoảng 13 giờ ngày 01/4/2020, H tiếp tục đến nhà trọ của T3 để đánh bạc, được T3 cho mượn 10 chén nhựa, 01 đĩa nhựa và 01 cái kéo dùng để cắt con vị từ lá bài tây rồi cùng Phạm Đình T, Hà Minh Q, Trần Văn H2, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Hoàng A và 01 người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch tham gia đánh bạc dưới hình thức “Xóc đĩa” thắng thua bằng tiền, cụ thể như sau:
Nguyễn Đức T2 và Phạm Đình T thay nhau làm cái, người làm cái sử dụng 01 cái đĩa nhựa và đặt trên đĩa nhựa 04 con vị hình tròn đường kính khoảng 02cm, được cắt từ lá bài tây rồi dùng 01 chén nhựa úp lên đĩa nhựa để che kín 04 con bài vị và dùng tay lắc bộ chén đĩa, lắc xong đặt lên 01 cái chăn bằng vải (gọi là chiếu bạc), các con bạc đặt cược số tiền từ 10.000đ đến 100.000đ vào chẵn hoặc lẻ, quy ước mặt ngoài lá bài là đen, mặt trong lá bài là trắng; Khi 04 con vị cùng mặt trắng hoặc mặt đen hay 2 mặt trắng 2 mặt đen là chẵn, trường hợp lẻ (03 mặt trắng 03 mặt đen); 01 mặt trắng. Sau khi các con bạc đặt cược xong thì người làm cái mở chén nhựa để xem kết quả, con bạc đặt cược đúng với kết quả của các con vị thì thắng, còn lại thì thua. Số tiền thắng, thua bằng số tiền đặt cược. Trong quá trình đánh bạc thì người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch nghỉ và đi về trước, không xác định được người này sử dụng bao nhiêu tiền để đánh bạc và thắng thua ra sao. H và người trên tiếp tục đánh bạc đến 16 giờ cùng ngày thì bị Công an xã H phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 chén nhựa màu xanh; 01 đĩa nhựa màu xanh; 04 con vị được cắt từ là bài tây, đường kính khoảng 02cm; 01 chăn bằng vải kích thước 1,2m x 1,4m và số tiền 980.000đ trên chiếu bạc, 5.000.000đ trên người các con bạc và 6.200.000đ dưới tủ gỗ gần chiếu bạc; 01 điện thoại Iphone màu đỏ; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 9 và 01 xe mô tô biển số 60F2 – 789.52. Công an xã H đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội Quả tang và chuyển cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T để xử lý theo quy định.
Quá trình điều tra xác định Nguyễn Quang H mang theo và sử dụng 580.000đ để đánh bạc, khi bắt H thắng 20.000đ, bị thu giữ 600.000đ; Phạm Đình T mang theo và sử dụng 1.500.000đ, T thua 800.000đ, bị thu giữ 700.000đ; Hà Minh Q mang theo 6.200.000đ và sử dụng 1.000.000đ để đánh bạc, kết quả không thua, khi bị bắt Q vứt 6.200.000đ vào gầm tủ gỗ gần chiếu bạc (đã thu giữ); Trần Văn H2 mang theo 1.760.000đ, sử dụng 760.00đ để đánh bạc, H2 thắng 140.000đ, bị thu giữ 1.900.000đ; Nguyễn Đức T2 mang theo và sử dụng 670.00đ để đánh bạc, T2 thua 200.000đ, bị thu giữ 470.000đ; Nguyễn Văn Đ mang theo 500.000đ để đánh bạc, Đ thắng 1.800.000đ, bị thu giữ 2.300.000đ; Nguyễn Hoàng A mang theo và sử dụng 240.000đ để đánh bạc; Hoàng A thua 230.000đ, bị thu giữ 10.000đ. Tổng số tiền các con bạc sử dụng để đánh bạc là 5.980.000đ. Do bị bắt quả tang nên T3 chưa thu được tiền xâu vào ngày 01/4/2020.
Về xử lý vật chứng: Số tiền 5.980.000đ là tiền thu lợi bất chính từ việc thu tiền xâu của các con bạc mà các bị cáo Mai Thị T3, Nguyễn Quang H, Nguyễn Hoàng A giao nộp, đề nghị tịch thu sung quỹ công. 01 chén nhựa màu xanh; 01 đĩa nhựa; 04 con bài vị được cắt từ lá bài tây, đường kính khoảng 02cm; 01 chăn bằng vải kích thước 1,2mx1,4m là công cụ các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, đề nghị tịch thu tiêu hủy vì không có giá trị.
Mai Thị T đã giao nộp 300.000đ là tiền thu lợi bất chính từ việc thu tiền xâu của các con bạc khi cho các con bạc đánh bạc tại phòng trọ của mình trong khoảng từ cuối tháng 3/2020. Nguyễn Quang H giao nộp 100.000đ, Nguyễn Hoàng A giao nộp 135.000đ tiền thu lợi bất chính từ việc đánh bạc nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Đối với số tiền 5.200.000đ của Hà Minh Q; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 9 và 1.000.000đ của Trần Văn H2, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu đỏ của Phạm Đình Tg, 01 xe mô tô biển số 60F2 – 789.52 có giấy tờ hợp pháp, các bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.
Tại bản Cáo trạng số 214/CT/VKS-TB, ngày 04/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố các bị cáo Nguyễn Quang H, Phạm Đình T, Hà Minh Q, Trần Văn H2, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Hoàng A và Mai Thị T3 thực hiện hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức xóc đĩa với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 5.980.000đ thì bị bắt quả tang. Trong đó, H, T, Q, H2, T2, Đ, A trực tiếp đánh bạc thắng thua với nhau, T3 là người cung cấp công cụ đánh bạc và sử dụng phòng trọ của mình làm địa điểm cho các con bạc thực hiện hành vi phạm tội để hưởng lợi.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội, phân tích tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, giữ nguyên quyết định truy tố theo nội dung cáo trạng và đề nghị xử phạt các bị cáo từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Vào lúc 16 giờ ngày 01/4/2020, tại ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Quang H, Phạm Đình T, Hà Minh Q, Trần Văn H2, Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Hoàng A thực hiện hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền còn Mai Thị T3 chuẩn bị công cụ đánh bạc và sử dụng phòng mình thuê trọ cho các con bạc thực hiện hành vi đánh bạc mục đích thu tiền xâu. Tổng số tiền thu trên chiếu bạc các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 5.980.000đ. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai những người làm chứng, các chứng cứ khác có tại hồ sơ nên có đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nhận thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội khác. Do vậy cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm nhưng chỉ dừng ở mức độ đồng phạm giản đơn, đều thống nhất cách thức đánh bạc, thỏa thuận thắng thua bằng tiền nên các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội tương đương nhau với cùng vai trò là người thực hành. Tuy nhiên, các bị cáo Phạm Đình T, Nguyễn Đức T2, Mai Thị T3 thực hiện vai trò tích cực hơn. Bị cáo T và T2 thay nhau làm cái, bị cáo T3 là người chuẩn bị địa điểm và công cụ đánh bạc nên tính chất, mức độ phạm tội cao hơn các bị cáo còn lại nên cần có mức phạt nghiêm khắc hơn.
[4] Xét các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; chưa tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền sử dụng vào việc đánh bạc không lớn, cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
[5] Về xử lý vật chứng:
+ Số tiền 5.980.000đ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội; 300.000đ của bị cáo T3 100.000đ của bị cáo H, 135.000đ của bị cáo Hoàng A là tiền thu lợi bất chính, tổng cộng 6.515.000đ cần tịch thu sung công quỹ.
+ Tịch thu tiêu hủy 01 chén nhựa màu xanh; 01 đĩa nhựa màu xanh; 04 con bài vị được cắt từ lá bài tây; đường kính khoảng 02cm; 01 chăn bằng vải kích thước 1,2mx1,4m là công cụ các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội;
+ Đối với số tiền 5.200.000đ của bị cáo Hà Minh Q; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu đỏ của Phạm Đình T; 01 xe mô tô biển số 60F2 – 789.52 có giấy tờ hợp pháp không liên quan đến việc phạm tội nên cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.
[6] Đối với đối tượng cùng tham gia đánh bạc với các bị cáo nhưng sau đó về trước không rõ nhân thân, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ để xử lý.
[7] Đối với hành vi đánh bạc của các bị cáo trong khoảng thời gian cuối tháng 3/2020 tại nhà trọ của bị cáo T3 nhưng không xác định được từng lần đánh bạc có những ai tham gia và tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc nên cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.
[8] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Xét tính hợp pháp của các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy đúng với quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 35 Bộ luật hình sự:
2.Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quang H, Phạm Đình T, Hà Minh Q, Trần Văn H2, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Hoàng A và Mai Thị T3 phạm tội “Đánh bạc”.
+ Xử phạt các bị cáo Nguyễn Quang H, Hà Minh Q, Trần Văn H2, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Hoàng A mỗi bị cáo 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng);
+ Xử phạt các bị cáo Phạm Đình T, Nguyễn Đức T2, Mai Thị T3 mỗi bị cáo 25.000.000đ (hai mươi lăm triệu đồng).
4. Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 chén nhựa màu xanh; 01 đĩa nhựa màu xanh; 04 con bài vị được cắt từ lá bài tây, đường kính khoảng 02cm; 01 chăn bằng vải kích thước 1,2mx1,4m; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 6.515.000đ (sáu triệu năm trăm mười lăm nghìn đồng).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/7/2020 và biên lai thu tiền số 01721 ngày 16/9/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Nai).
5. Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 195/2020/HSST ngày 17/09/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 195/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về