Bản án 195/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 195/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 177/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 192/2020/QĐXXST-HS ngày 27/10/2020, đối với 02 bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Quốc V; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 22/6/19xx, tại thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ x, khu B, phường D, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Kha và bà: Phạm Thị T1; Vợ: Bùi Thị T2 (đã ly hôn), có 01 con: sinh năm 20xx; Tiền án: Tháng 7/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố C xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 12/5/2019, chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/6/2020, tạm giam đến ngày 20/8/2020 thì được thay thế bằng biện pháp “Bảo lĩnh – Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Đinh Văn H1; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 17/5/20xx, tại huyện Đ, tỉnh Y; Nơi ĐKHKTT: Thôn L, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Y; Chỗ ở: Tổ x, khu x, phường O, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đinh Văn L1 và bà: Bùi Thị H2; Vợ, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/6/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Quảng Ninh – Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: chị Hoàng Nhật L2 – Vắng mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Các anh Lê Sơn H3, Lương Quang T2 - Đều vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 50 phút ngày 19/6/2020, tại quán Karaoke H thuộc tổ xx, khu x, phường O, thành phố P, Công an thành phố Cẩm Phả kiểm tra phát hiện, thu giữ tại túi quần đùi phía trước bên trái của Đinh Văn H1 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, mục đích H1 khai để sử dụng cùng với V trong quá trình hát karaoke tại quán. H1 khai là ma túy đá của V mua từ ngày 17/6/2020. Công an còn thu giữ của H1 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone màu hồng, 01 con dao gấp bằng kim loại; Thu giữ của V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đỏ, số tiền 250.000 đồng và 01 con dao gấp bằng kim loại.

Tại bản kết luận giám định số 789/GĐMT ngày 24/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong túi nilon thu giữ của H1 là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,285 gam.

Bản cáo trạng số 171/CT-VKSCP ngày 25/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố các bị cáo: Đinh Văn H1, Nguyễn Quốc V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Đinh Văn H1 khai nhận hành vi phạm tội cụ thể như sau: Bị cáo và bị cáo V quen biết nhau ngoài xã hội và cùng góp tiền thuê nhà trọ tại tổ x, khu x, phường O, thành phố Cẩm Phả. Tối ngày 17/6/2020, bị cáo thấy V đi từ thành phố C về và bỏ từ trong bao thuốc lá ra 01 túi ma túy đá và một bộ đồ để sử dụng ma túy đá để lên mặt bàn trong phòng ngủ, V xúc ra một ít ma túy đá ra cóong thủy tinh nhưng chưa sử dụng ngay. Đến khoảng 11 giờ ngày 18/6/2020 V mới sử dụng (khi V sử dụng ma túy thì bị cáo và L2 là bạn gái của bị cáo nhìn thấy), số ma túy còn lại V vẫn để trên mặt bàn trong phòng ngủ của V. Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 19/6/2020 bị cáo và V rủ nhau ra quán Karaoke H phường O để hát và sử dụng ma túy, bị cáo thấy túi ma túy để trên mặt bàn nên đã cầm đút vào túi quần đùi bên trái, V cũng nhìn thấy và hiểu là mang theo để cùng sử dụng. Đến khoảng 14 giờ 50 phút bị cáo và V đi đến sảnh tầng 3 phía trước cửa thang máy của quán Karaoke H thì thì bị Công an kiểm tra, bắt giữ đúng như nội dung vụ án đã nêu. Công an thành phố Cẩm Phả đã thu của bị cáo: 01 túi nilon bên trong có ma túy đá, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone bị cáo dùng để liên lạc với gia đình, không liên quan đến hành vi phạm tội; 01 chiếc dao bấm bị cáo nhặt được trên đường thấy đẹp nên đã cho vào túi. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không bị oan. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Quốc V khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án đã nêu và đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Nguồn gốc số ma túy công an thu giữ tại túi quần của H1 là của bị cáo mua của người thanh niên tên Hiệp (không rõ lý lịch địa chỉ) tại thị trấn H4, huyện H5, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 17/6/2020 với giá 700.000 đồng, mục đích là để sử dụng dần. Sau khi mua được ma túy bị cáo mang về phòng trọ tại tổ x, khu x, phường O, thành phố Cẩm Phả (bị cáo thuê cùng với Đinh Văn H1). Sự việc diễn ra tại phòng trọ và tại quán karaoke H cho đến khi bị công an bắt quả tang vào ngày 19/6/2020 đúng như bị cáo H1 đã khai. Mục đích H1 cầm theo ma túy đến quán Karaoke H là để sử dụng cùng bị cáo. Công an thành phố Cẩm Phả đã thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đỏ, bị cáo sử dụng để liên lạc với người thân, không sử dụng liên lạc để mua ma túy, số tiền 250.000 đồng là do bị cáo lao động mà có và 01 con dao gấp bị cáo dùng để gọt hoa quả. Nguồn gốc bộ đồ sử dụng ma túy tại nhà trọ là của bị cáo nhặt được mang về để sử dụng ma túy, tại phòng trọ bị cáo không sử dụng ma túy cùng với H1 và L2 (là bạn gái của H1 và ở cùng với H1, trước khi đi ra quán hát bị cáo còn dặn L2 cất hộ bộ đồ sử dụng ma túy). Bị cáo thừa nhận có tiền án đúng như lý lịch của bị cáo đã nêu, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không bị oan. Hiện nay hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, sức khỏe rất yếu vì mắc bệnh u tuyến giáp nặng thường xuyên phải đi điều trị tại khoa truyền nhiễm của bệnh viện nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người làm chứng chị Hoàng Nhật L2 khai cụ thể như sau: Chị là bạn gái của bị cáo H1, ở cùng với H1 tại nhà trọ, thỉnh thoảng bị cáo V đến ở cùng. Khoảng 11 giờ ngày 18/6/2020 khi V ngủ dậy, chị chứng kiến V ngồi một mình sử dụng ma túy đá, chị và H1 không sử dụng ma túy cùng với V. Đến khoảng 14 giờ ngày 19/6/2020 H1 và V cùng bảo đi chợ mua thức ăn để tối ăn cơm, V còn dặn chị cất hộ bộ đồ sử dụng ma túy đá, do chị thấy bừa bộn nên đã bỏ bộ đồ sử dụng ma túy vào trong túi rác rồi mang đi vứt bỏ. Đến tối ngày 19/6/2020 chị được công an mời lên làm việc thì mới biết các bị cáo bị công an bắt giữ. Chị không biết bị cáo V mua ma túy của ai, ở đâu.

Người chứng kiến là các anh Nguyễn Văn Sơn, Lê Sơn H3 vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện: Ngày 19/6/2020, tại quán Karaoke H thuộc khu vực thuộc tổ x, khu x, phường O, thành phố P các anh chứng kiến công an bắt quả tang Đinh Văn H1, Nguyễn Quốc V có hành vi tàng trữ 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, công an đã thu giữ và niêm phong vật chứng theo đúng quy định.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo: Đinh Văn H1, Nguyễn Quốc V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, (đối với Nguyễn Quốc V áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52), Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự; Xử phạt:

Nguyễn Quốc V từ 18 (mười tám) đến 21 (hai mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án (được trừ đi thời hạn đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/6/2020 đến ngày 20/8/2020).

Đinh Văn H1 từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với 02 bị cáo.

Áp dụng: Điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định và 02 con dao bấm. Trả lại cho bị cáo V số tiền 250.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone, trả lại cho bị cáo H1 01 điện thoại di động Iphone do không liên quan đến việc phạm tội.

Tại phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận gì thêm, cả hai bị cáo đều ân hận với hành vi phạm tội của mình và đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Đinh Văn H1, Nguyễn Quốc V không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên toà Đinh Văn H1, Nguyễn Quốc V khai nhận về hành vi phạm tội đúng với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 15 giờ 15 phút ngày 19/6/2020; Biên bản tạm giữ và Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng; ngoài ra còn phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến cùng với các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 50 phút ngày 19/6/2020 bị cáo Nguyễn Quốc V, Đinh Văn H1 đã có hành vi tàng trữ 0,285 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng trong quá trình đi hát Karaoke tại quán H thuộc tổ xx, khu x, phường O, thành phố Cẩm Phả thì bị Công an thành phố Cẩm Phả phát hiện bắt quả tang. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ nên chấp nhận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà còn làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là hiểm hoạ đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục cả hai bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo V có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm mà vẫn đi vào con đường phạm tội, chứng tỏ bị cáo thiếu ý thức rèn luyện bản thân, do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo H1 không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự phân công nhiệm vụ, tại phiên tòa cả hai bị cáo đều thừa nhận bị cáo V là người đi mua ma túy của người thanh niên tên H6 tại huyện H4, tỉnh Quảng Ninh mang về nhà trọ và cùng thống nhất với H1 mang ma túy đến quán Karoke để sử dụng nên bị cáo V có vai trò cao hơn trong vụ án. Hội đồng xét xử có xem xét, tại phiên tòa cả hai bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do đó cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo; bị cáo V hiện đang mắc bệnh u tuyến giáp thể nặng, thường xuyên phải điều trị bệnh truyền nhiễm, sức khỏe yếu nên áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tuy nhiên bị cáo V vẫn phải chịu mức án cao hơn so với bị cáo H1 và phải bắt các bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định lại nghiện ma túy, vì vậy cần miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan công an thu giữ của của mỗi bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone và còn thu giữ của bị cáo V số tiền 250.000 đồng, do không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo.

Ngoài ra công an còn thu giữ của mỗi bị cáo một con dao bấm không còn giá trị sử dụng cùng với số ma túy còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với: Đối tượng tên H4 là người bán ma túy cho V vào ngày 17/6/2020, do không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở làm rõ.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 (đối với bị cáo Nguyễn Quốc V áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52), Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc V, Đinh Văn H1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Nguyễn Quốc V 21 (hai mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án (được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 19/6/2020 đến ngày 20/8/2020):

Đinh Văn H1 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2020:

Căn cứ khoản 5 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự; Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” đối với bị cáo Nguyễn Quốc V cho đến thời điểm bị cáo đi chấp hành án phạt tù.

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao gấp màu đen, bằng kim loại, dài 15,2cm khi mở lưỡi, chiều dài khi gấp là 9cm thu giữ của bị cáo H1; 01 con dao gấp bằng kim loại, chiều dài khi gấp là 9,2cm, phần cán được ốp nhựa màu đỏ thu giữ của bị cáo V và phong bì số: 789/KLGĐ còn nguyên dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Quốc V: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, mặt sau dán giấy đề can màu đỏ, kèm 01 sim và số tiền 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng); Trả lại cho bị cáo Đinh Văn H1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu hồng, màn hình bị vỡ, rạn, kèm 01 sim; do không liên quan đến việc phạm tội.

Tình trạng vật chứng, tài sản thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 09/BB-THA ngày 12/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và L2 phí Tòa án:

Buộc bị cáo Nguyễn Quốc V, Đinh Văn H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 195/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:195/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về