Bản án 195/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 195/2020/HS-ST NGÀY 03/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 219/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 886/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn K; Tên gọi khác: Phạm Hoài K; Sinh năm 1995; Nơi cư trú: Ấp X, xã LV, thành phố C, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Trình độ học vấn: Không biết chữ (Viết được tên); Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Con ông Phạm Văn Kh và bà Nguyễn Thị O; Vợ, con: Chưa có; Anh, chị, em ruột: 04 người (03 N; 01 nữ), lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2001 và bị cáo là con thứ hai trong gia đình.

+ Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 71 ngày 12/03/2013 của Trưởng Công an xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

Bản án hình sự sơ thẩm số 179 ngày 04/7/2013 của Tòa án thành phố Cà Mau phạt 04 tháng tù về hành vi trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 16/12/2013 và đã nộp án phí xong vào ngày 20/10/2013.

Bị cấm đi khỏi nơi cư trú tại ấp X, xã LV, thành phố C, tỉnh Cà Mau từ ngày 24/8/2020 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa Bị hại: Anh Huỳnh Văn S, sinh năm 1986. Địa chỉ tạm trú: Khóm Y, phường T, thành phố C, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Huỳnh Hoàng N, sinh năm 1975. Địa chỉ tạm trú: Khóm V, phường P, thành phố C, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 30 phút ngày 06/7/2020, Phạm Văn K đến phòng trọ của anh Huỳnh Văn S đang trọ tại phòng số 15, khu nhà trọ Tư Tân, gần đường N, Khóm Y, phường T, thành phố C. Tại đây, anh S có tổ chức uống rượu gồm có K, anh S và ông Nguyễn Văn D (là cha dượng của anh S). Uống rượu được một lúc thì anh S đi ngủ. Lúc này, chỉ còn K với ông D tiếp tục uống rượu cho đến khi ông D không uống rượu được nữa và ngủ tại bàn nhậu khoảng 13 giờ cùng ngày. Lúc này, cháu Huỳnh Ngọc G, sinh năm 2013 (là con anh S) đang thức. K chuẩn bị về thì nhìn thấy điện 01 chiếc thoại hiệu Oppo A31 của anh S đang sạc pin ngay cạnh tivi trong phòng trọ nên K nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại của anh S nhằm mục đích bán lấy tiền chi xài cá nhân. Để thực hiện hành vi của mình, K đến chỗ chiếc điện thoại đang sạc pin, lén lút tháo dây sạc pin ra khỏi điện thoại, rồi cất giấu chiệc điện thoại vào túi quần đang mặc và đi ra khỏi phòng trọ của anh S. Đến khoảng hơn 13 giờ 30 phút cùng ngày, anh S thức dậy, không tìm thấy điện thoại. Anh S nghi K trộm cắp và cháu Giàu cho biết là cháu nhìn thấy K lấy điện thoại của anh S. Sau đó, anh S đi tìm K nhưng không gặp, đến 08 giờ ngày 07/7/2020 anh S trình báo Công an phường 8, thành phố Cà Mau.

Mặt khác, sau khi chiếm đoạt điện thoại của anh S, đến khoảng 15 giờ ngày 06/7/2020 K gặp anh Huỳnh Hoàng N, sinh năm 1975, trú tại Khóm V, phường P, thành phố C đang sửa nhà tại Khóm Y, phường T, thành phố C.Tại đây, K nói với anh N là K bán 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A31 với giá 1.000.000đồng thì anh N đồng ý mua với giá trên, K nhận đủ số tiền 1.000.000 đồng anh N trả và chi xài cá nhân hết.

Đến khoảng hơn 08 giờ ngày 07/7/2020, Công an phường 8, thành phố Cà Mau mời K về làm việc, K thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản. Đồng thời, anh N giao nộp, Cơ quan điều tra thu giữ 01 chiếc điện thoại Oppo A31có IMEI1: 867652040641854 và có IMEI2: 867652040641854. Ngoài ra, thu giữ của K 02 sim điện thoại có mã số: 8984020001508445522 và 8984048000301184538 do K tháo ra từ điện thoại trộm của anh S.

Theo Kết luận định giá tài sản số 65/KL-HĐĐGngày 20/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Cà Mau xác định 01 điện thoại di động hiệu Oppo A31 màu đen đã qua sử dụng, giá trị còn lại 90% là: 4.990.000 đồng x 90% = 4.491.000 đồng.

Về vật chứng thu giữ và xử lý trong vụ án gồm:

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo A31 màu đen đã qua sử dụng;

+ IMEI1: 867652040641854 và có IMEI2: 867652040641854;

+ 02 sim điện thoại ra khỏi máy điện thoại Oppo A31 có mã số: 8984020001508445522 và 8984048000301184538 Toàn bộ vật chứng đã trả cho anh S vào ngày 30/7/2020.

Tại Cáo trạng số 206/CT-VKS ngày 10/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Phạm Văn K về tội “Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn K phạm tội trộm cắp tài sản. Đồng thời, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Văn K từ 09 tháng đến 01 năm tù; Về trách nhiệm dân sự, anh Huỳnh Văn S, anh Huỳnh Hoàng N không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét; Vật chứng vụ án: Anh Huỳnh Văn S đã nhận lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo A31 màu đen đã qua sử dụng; IMEI1: 867652040641854 và có IMEI2: 867652040641854; 02 sim điện thoại ra khỏi máy điện thoại Oppo A31 có mã số: 8984020001508445522 và 8984048000301184538 nên không đặt ra xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn K thừa nhận hành vi phạm tội đã thực hiện đúng như Cáo trạng đã nêu, không oan sai và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Đối với bị hại Huỳnh Văn S, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Huỳnh Hoàng N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không rõ lý do. Xét thấy việc giải quyết vắng mặt của anh S, anh N không ảnh hưởng đến nội dung xét xử vụ án nên căn cứ quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Huỳnh Văn S và anh Huỳnh Hoàng N theo luật định.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn K khai nhận: Vào khoảng hơn 13 giờ ngày 06/7/2020 tại nhà trọ số 15, khu nhà trọ Tư Tân, gần đường N, Khóm Y, phường T, thành phố C lợi dụng lúc anh Huỳnh Văn S và ông Nguyễn Văn Dũng đã say rượu và ngủ, nên Phạm Văn K đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Oppo A31 màu đen của anh S có trị giá 4.491.000 đồng theo Kết luận định giá tài sản số 65/KL-HĐĐGngày 20/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Cà Mau và bán cho anh Huỳnh Hoàng N được 1.000.000 đồng nhằm mục đích chi xài cá nhân.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo K tại phiên tòa là có cơ sở chấp nhận, bởi lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó Cáo trạng số: 206/CT- VKS ngày 10/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Phạm Văn K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo K là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có nhân thân xấu, tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 71 ngày 12/03/2013 của Trưởng Công an xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản; Tại Bản án sơ thẩm số 179 ngày 04/7/2013 của Tòa án thành phố Cà Mau phạt 04 tháng tù về hành vi trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 16/12/2013 và đã nộp án phí xong vào ngày 20/10/2013. Sau khi trở về hòa nhập cộng đồng bị cáo không sửa chữa lỗi lầm, trở thành người có ích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, cho thấy bị cáo xem thường pháp luật. Do đó, cần phải xử lý nghiêm và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình Sự. Đối với tình tiết giảm nhẹ người thân có công với Nhà nước, bị cáo khai có bà ngoại là bà Nguyễn Thị Hảnh là người có công với Nhà nước nhưng tại phiên tòa bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh nên không xem xét.

[6] Vật chứng của vụ án: Ngày 30/7/2020, anh Huỳnh Văn S đã nhận lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo A31 màu đen đã qua sử dụng; IMEI1: 867652040641854 và có IMEI2: 867652040641854; 02 sim điện thoại ra khỏi máy điện thoại Oppo A31 có mã số: 8984020001508445522 và 8984048000301184538 nên không đặt ra xem xét.

[7] Trách nhiệm dân sự: Anh Huỳnh Văn S, anh Huỳnh Hoàng N không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Đối với anh Huỳnh Hoàng N mua điện thoại do K bán nhưng không biết K trộm cắp điện thoại của anh S, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với N là đúng quy định của pháp luật.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn K (Phạm Hoài K) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn K (Phạm Hoài K) 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phạm Văn K phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (chưa nộp).

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 195/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:195/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về