Bản án 193/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 193/2020/HS-ST NGÀY 18/06/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 129/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2768/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Đặng Trần Q; Sinh ngày 07 tháng 7 năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký thường trú: 170/5 HD, Phường K, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: 175 NTT, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Thanh S và bà Trần Thị Kim T; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 27/10/2019. Có mặt.

Người bào chữa: Luật sư Lưu Tấn Anh Toàn - Công ty Luật TNHH MTV Gia Nghi thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 27/10/2019, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp Công an phường Tân Phú, Quận 7 kiểm tra Phòng 402 nhà số 175 NTT, phường T, Quận G phát hiện bắt quả tang Đặng Trần Q đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm bán lại cho người khác; Thu giữ 02 gói nylon chứa ma túy thể rắn, có khối lượng 52,6058 gam, loại Methamphetamine, 02 điện thoại di động, 01 cân điện tử, 05 bịch nylon.

Toàn bộ số ma túy thu giữ của Đặng Trần Q đã được trưng cầu giám định, kết quả thể hiện tại Bản kết luận giám định số 2017/KLGĐ-H ngày 04/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra Đặng Trần Q khai nhận: Bản thân có sử dụng ma tuý đá nên quen biết một người đàn ông tên là Lâm (không rõ lai lịch). Khoảng một tháng trước lúc bị bắt, Lâm đã giới thiệu Q quen với một người phụ nữ tên là Tino (không rõ lai lịch) để Q mua ma túy của Tino về bán cho người nghiện kiếm lời. Cách thức giao dịch ma túy: Lâm bảo lãnh cho Q mua ma túy của Tino mà không cần phải trả tiền trước, khi nào Q bán được ma túy sẽ trả tiền cho Tino. Khi cần mua ma túy, Q sẽ dùng số điện thoại 0908231904 liên lạc đến số điện thoại 0938952225 của Lâm để Lâm liên hệ với Tino bán ma túy cho Q. Sau đó, Q sẽ liên lạc với Tino thông qua số điện thoại 0335509797 của Tino để hẹn địa điểm giao dịch ma túy. Q đã mua ma túy của Tino được 02 lần, cụ thể như sau:

- Lần đầu là vào khoảng ngày 17/10/2019, Q mua của Tino 01 hộp 5 (khoảng 05 gam) ma túy đá với giá 2.200.000 đồng, giao dịch ma tuý tại khu vực đường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1. Do Q chưa gặp Tino nên lần này Lâm đi cùng để giới thiệu Q với Tino và do Q không có tiền nên Lâm đã đưa cho Q 2.200.000 đồng để trả tiền mua ma túy cho Tino. Sau khi nhận được ma túy từ Tino thì Q chỉ lấy khoảng 02 gam ma túy đá, số ma túy còn lại thì Lâm giữ để làm gì Q không biết. Mục đích Q mua số ma túy này để thử trước nhưng Q chỉ thử một ít, số ma túy còn lại Q chia làm hai gói để bán lại cho người nghiện kiếm lời, cụ thể: một gói Q bán cho người nghiện (không biết tên) sử dụng số điện thoại 0767502341 với giá 300.000 đồng, gói còn lại Q bán cho người nghiện (không biết tên) sử dụng số điện thoại 0838487865 với giá 500.000 đồng, cả hai lần đều giao dịch tại khu vực Quận 1. Cả hai người nghiện này Q quen biết tại một quán Karaoke (không rõ địa chỉ) ở Quận 1 mà Q từng làm nhân viên phục vụ.

- Lần hai là vào ngày 27/10/2019, Q mua của Tino 50 gam ma tuý đá với giá 17.000.000 đồng, giao dịch ma túy tại khu vực đường Trần Phú, Quận 5. Lần giao dịch này Lâm không đi cùng và Q cũng chưa trả tiền mua ma túy cho Tino.

Sau khi mua được ma túy, Q đem về dùng cân điện tử chia số ma túy trên thành một gói lớn và một gói nhỏ. Gói nhỏ Q dự định sử dụng cho bản thân và bán lại cho người nghiện. Gói lớn Q định bán cho đối tượng tên Châu Thị Tuyết N với giá 19.000.000 đồng nhưng chưa bán được thì bị bắt như trên.

Châu Thị Tuyết N khai nhận: N quen biết với Q được khoảng 01 năm qua bạn bè ngoài xã hội và biết Q có bán ma túy. Khoảng ngày 24/10/2019, N hỏi mua của Q 50 gam ma túy đá. Nhưng sau đó N bị Công an Quận 7 bắt nên chưa mua được. Đây là lần đầu Ngân đặt mua ma túy của Q. Hiện N đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Quận 7 khởi tố về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” trong vụ án khác.

Đối với các số điện thoại 0797061797; 0908231904; 0798031395; 0795964429; 0904764099; 0938952225; 0767502341; 0335509797; 0326678201; 0838487865 của các đối tượng sử dụng để liên lạc mua bán ma tuý với nhau, Cơ quan điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có Công văn số 2324/PC04(Đ5) ngày 14/11/2019; 185/PC04(Đ5) ngày 22/01/2020;

244/PC04(Đ5) ngày 11/02/2020; 2325/PC04(Đ5) ngày 14/11/2019; 184 PC04(Đ5) ngày 22/01/2020; 243/PC04(Đ5) ngày 11/02/2020; 186/PC04(Đ5) ngày 22/01/2020 gửi Trung tâm tính cước và thanh khoản Mobiphone; Tập đoàn công nghiệp – Viễn thông quân đội Viettel; Tổng Công ty hạ tầng mạng VNPT để đề nghị hỗ trợ xác minh họ tên, địa chỉ người thuê bao? Thời gian đăng ký thuê bao điện thoại nhưng đến nay vẫn chưa nhận được kết quả trả lời của các Cơ quan trên.

Đối với các đối tượng tên Lâm và Tino do Q khai không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý.

Tại phiên tòa bị cáo Đặng Trần Q thừa nhận: Do muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo mua ma túy của đối tượng tên Tino về phân chia thành 02 gói, gói lớn bị cáo để bán lại cho người nghiện để kiếm lời; gói nhỏ bị cáo để sử dụng và có người hỏi mua thì sẽ bán.

Tại bản cáo trạng số 527/CT-VKS-P1 ngày 27/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đặng Trần Q về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, luận tội và tranh luận: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Đặng Trần Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Đặng Trần Q từ 15 năm đến 16 năm tù.

Phạt bổ sung số tiền 10 triệu đồng sung Ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Luật sư Lưu Tấn Anh Toàn phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tội danh cũng như điều khoản áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tương đối nặng do bị cáo còn trẻ, phạm tội lần đầu và theo nghị định số 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ thì Methamphetamine không phải là chất tuyệt đối cấm, hậu quả do bị cáo gây ra chưa lớn, phạm tội xuất phát từ việc bị cáo là con nghiện, bố mẹ ly hôn từ nhỏ nên bị cáo thiếu sự giáo dục, định hướng. Mong Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc giảm nhẹ mức án để bị cáo được cải tạo sớm trở về hòa nhập xã hội.

Viện kiểm sát tranh luận: Nghị định số 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định được lưu hành đối với một số cơ quan nhất định, bởi Methamphetamine đã được Bộ luật hình sự đưa vào cùng điểm điều luật với heroin nên viện kiểm sát bảo lưu quan điểm.

Bị cáo đồng ý với quan điểm bào chữa của luật sư và không tranh luận gì thêm. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật; Luật sư của bị cáo, bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Đặng Trần Q đã có hành vi mua ma túy của đối tượng tên Tino về phân chia và cất giữ nhằm bán cho người nghiện để hưởng lợi. Tại bản kết luận giám định số: 2017/KLGĐ-TT ngày 04/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: “Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 52,6058g (năm hai phẩy sáu không năm tám gam), loại Methamphetamine”.

Mặc dù, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Đặng Trần Q khai nhận sau khi mua ma túy của đối tượng Tino, bị cáo chia thành 02 gói, gói nhỏ bị cáo dự định sử dụng cho bản thân và nếu có người hỏi mua sẽ bán lại kiếm lời. Tuy nhiên bản thân bị cáo cũng không xác định được trong số ma túy đó bị cáo để dành sử dụng bao nhiêu, để bán là bao nhiêu. Do đó để đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị cáo Hội đồng xét xử chỉ xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam” là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt được quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Trần Q là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự, trị an và an ninh xã hội, xâm phạm đến chính sách của nhà nước về đấu tranh phòng ngừa và loại bỏ ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ ma túy là loại biệt dược độc hại, đã, đang và sẽ hủy hoại cả về thể chất lẫn tinh thần của những người nghiện hút, do đó nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, mua bán, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy và quy định trừng phạt nghiêm khắc với những ai cố tình vi phạm, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã bất chấp các quy định pháp luật nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn dài nhằm mục đích giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt thể hiện ở việc bị cáo chưa có tiền án, tiền sự do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”, nghĩ cần buộc bị cáo phải nộp một số tiền để tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[6] Về vật chứng:

Đối với 01 hộp niêm phong bên ngoài ghi số 2017/19 bên ngoài có chữ ký giám định viên Nguyễn Thanh Điền và cán bộ điều tra Trần Bảo Cường, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 05 bịch nylon; 01 cân điện tử hiệu Marlboro là vật chứng cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 02 điện thoại di động hiệu Samsung là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[8] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận tòa bộ quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và các tình tiết giảm nhẹ mà luật sư trình bày.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm b Khoản 3 Điều 251; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Đặng Trần Q 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Thời hạn từ tính từ ngày 27/10/2019.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy: 01 hộp niêm phong bên ngoài ghi số 2017/19 bên ngoài có chữ ký giám định viên Nguyễn Thanh Điền và cán bộ điều tra Trần Bảo Cường, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 05 bịch nylon; 01 cân điện tử hiệu Marlboro.

Tịch thu sung Ngân sách nhà nước: 02 điện thoại di động hiệu Samsung. (Theo biên bản tang tài vật số 183/20 ngày 10/03/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tại kho 253/5 Lũy Bán Bích, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh) Áp dụng Khoản 2 Điều 135 và Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm;

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 193/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:193/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về