Bản án 193/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 193/2020/HS-ST NGÀY 10/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 10 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 182/2020/TLST-HS, ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 191/QĐXXST- HS ngày 29/10/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lục Ninh B; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 25/3/1974, tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh;

Nơi cư trú: Tổ 1, khu H, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Tôn giáo: không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 12/12;

Họ tên bố: Lục Thanh H (đã chết); Họ tên mẹ: Trần Thị T;

Vợ: Vũ Thị H; Con: có 01 con sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 10/02/1999 bị Tòa án nhân dân thị xã Cẩm Phả (nay là thành phố Cẩm Phả) xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 21/6/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên toà.

* Người chứng kiến: Ông Hoàng Văn O – sinh năm 1953; nơi ĐKHKTT: Tổ 3, khu Đập Nước 2, phường Cẩm Thuỷ, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Ông Lê Văn S – sinh năm 1958, nơi ĐKHKTT: Tổ 4, khu 5A, phường Cẩm Trung, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 40 phút ngày 21/6/2020, tại tổ 5, khu 2A, phường Cẩm Trung, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Công an phường Cẩm Trung bắt quả tang Lục Ninh B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trên tay trái của B một túi nilon màu đen bên trong có một gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng; Thu trong túi quần bên phải phía trước của B 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có lắp sim; 01 lọ nước cất; 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng. Thu trong túi quần bên phải phía sau của B 01 ví giả da màu nâu bên trong có số tiền 102.000đồng và 01 chứng minh nhân dân mang tên Lục Ninh B (Bút lục số 55,56) Tại Bản kết luận giám định số 798 ngày 25/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật thu giữ của Lục Ninh B gửi giám định là ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng là 0,179 gam. Hoàn lại sau giám định 0,13gam. (Bút lục số 24).

Quá trình điều tra và tại phiên toà, Lục Ninh B khai nhận: Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 21/6/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy Heroine, B đi bộ đến đường Tô Hiệu, phường Cẩm Trung tìm mua ma túy thì gặp một người đàn ông không quen biết, B và người đàn ông này rủ nhau góp tiền mua ma túy sử dụng chung, mỗi người đã góp 100.000 đồng. Người đàn ông không quen biết cầm 200.000 đồng đi mua ma túy ở đâu không rõ. Còn B đi mua 1 lọ nước cất, 2 bơm kim tiêm rồi đi đến gần khách sạn Hải Yến đợi lấy ma túy. Khoảng 10 phút sau, người đàn ông không quen biết đi xe đạp điện đến đưa cho B 01 túi nilon màu đen bên trong có 01 gói giấy chứa ma túy Heroine. B cầm gói ma túy trên tay trái, ngồi sau xe đạp điện để người đàn ông không quen biết chở đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi cả hai đi đến tổ 5, khu 2A, phường Cẩm Trung, thành phố Cẩm Phả thì bị Công an phát hiện bắt giữ, nhưng người đàn ông không quen biết điều khiển xe bỏ chạy.

Người làm chứng là các ông Hoàng Văn O và Lê Văn S, trong quá trình điều tra đều có lời khai thể hiện nội dung: hồi 14 giờ 20 phút ngày 21/06/2020, tại khu vực tổ 5, khu 2A, phường Cẩm Trung, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh các ông chứng kiến việc Công an bắt giữ hai người đàn ông đi xe đạp điện, người cầm lái đã phóng xe bỏ chạy, người ngồi sau bị Công an bắt giữ khai tên là Lục Ninh B, Công an đã thu giữ trên tay trái của B 01 túi nilon màu đen B khai là ma tuý Heroine B mang theo để sử dụng (BL 25-31).

Tài liệu có trong hồ sơ ngoài kết luận giám định ma túy và lời khai của người làm chứng đã nêu ở trên, còn có các tài liệu khác: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 17,18); Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL 19); bản ảnh vật chứng (BL 33) các tài liệu này đều có nội dung phù hợp lời khai của bị cáo, phù hợp lời khai của người làm chứng.

Tại bản cáo trạng số 177/CT-VKSCP ngày 29/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo Lục Ninh B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa kiểm sát viên trình bày luận tội bị cáo với đề nghị kết tội bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã truy tố; đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, ngày 21/6/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và có quan điểm xử lý vật chứng theo quy định.

Tại phần tranh luận, bị cáo Lục Ninh B không tranh luận;

Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lục Ninh B đã khai nhận ngày 21/6/2020 bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, nội dung lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của người làm chứng, phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Kết luận giám định ma túy.

Từ các căn cứ này Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 40 phút ngày 21/6/2020, tại khu vực tổ 5, khu 2A, phường Cẩm Trung, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Lục Ninh B đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,179 gam ma túy Heroine, mục đích để sử dụng, thì bị Công an bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, tội danh có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, nội dung đề nghị xét xử đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Pháp luật hình sự xử lý nghiêm khắc đối với các tội phạm về ma túy, để nhằm mục đích ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy trong xã hội. Bị cáo là người trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu được tác hại của ma tuý đối với xã hội và sự nghiêm cấm của pháp luật đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhưng do lối sống không có trách nhiệm với bản thân và xã hội bị cáo vẫn cố tình mua ma túy để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã tiếp tay cho người bán ma túy, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương, gây mất trật tự trị an xã hội.Xét tính chất tội phạm bị cáo thực hiện, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo tỏ thái độ ăn năn hối cải, bố và mẹ bị cáo đều được tặng thưởng huân chương kháng chiến, là người có công với cách mạng, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngày 10/02/1999 bị cáo bị kết án 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tính đến ngày phạm tội lần này bản án đã được xoá án tích, nên chỉ xét là nhân thân đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 01 lọ nước cất, 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng xác định là vật không có giá trị nên tịch thu tiêu huỷ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có lắp sim, 01 ví giả da màu nâu, số tiền 102.000đồng và 01 chứng minh nhân dân mang tên Lục Ninh B, xác định là tài S và giấy tờ tuỳ thân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với người đàn ông Lục Ninh B khai góp tiền mua ma túy với B, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ : điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự ;

Tuyên bố: Bị cáo Lục Ninh B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lục Ninh B 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt ngày 21/6/2020. (Tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án).

Áp dụng điểm a, c khoản 2 ; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự:

-Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 798/LKGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh;

-Tịch thu tiêu huỷ: 01 lọ nước cất, 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng;

-Trả cho bị cáo Lục Ninh B: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đỏ, Model: RM-944 số IMEI 1: 354247/06/116724/2, số IMEI 2:

354247/06/116725/9 kèm 01 sim, 01 pin; 01 ví giả da màu nâu; số tiền 102.000đồng (một trăm linh hai nghìn đồng) và 01 chứng minh nhân dân mang tên Lục Ninh B cấp ngày 12/01/2011.

(Hiện trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 06/BB-THA ngày 12/10/2020 của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.) Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Lục Ninh B phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, báo cho bị cáo Lục Ninh B biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 193/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:193/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về