Bản án 192/2021/HS-PT ngày 22/04/2021 về tội giết người và hủy hoại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 192/2021/HS-PT NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 291/2020/TLPT-HS ngày 12-8- 2020 đối với bị cáo Vũ Văn H về tội “Giết người” “Hủy hoại tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo và người bị hại đồng thời là người đại diện hợp pháp của người bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HS-ST ngày 10/07/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

- Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:

Vũ Văn H (H Heo); sinh năm 1968, tại tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Gia Lai; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hóa: 8/12; Con ông Vũ Văn B (chết) và bà Nguyễn Thị N; có vợ Nguyễn Thị M và 04 con; Tiền án; tiền sự: Không; Bị tạm giữ, tạm giam ngày 23/5/2019. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo:

Ông Nguyễn Mạnh H, Luật sư, văn phòng luật sư H, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai bào chữa cho bị cáo Vũ Văn H theo yêu cầu của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Có mặt.

Người bị hại:

1. Bà Trần Thị H1, sinh năm 1972 (chết)

2. Ông Nguyễn Danh Đ, sinh năm 1968. Trú tại: tỉnh Gia Lai; Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại bà Trần Thị H1:

1. Ông Nguyễn Danh Đ, sinh năm: 1968 (chồng bà H1).

2. Anh Đỗ Long S, sinh năm 1994 (con bà H1).

3. Chị Nguyễn Thị Thùy U, sinh ngày 25/01/2001 (con bà H1); Cùng trú tại: tỉnh Gia Lai. Ông Đ có mặt. Anh S, chị U vắng mặt.

4. Bà Hoàng Thị C, sinh năm 1941 (mẹ ruột bà H1). Trú tại: tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Danh Đ:

Ông Lê Đức B, Luật sư, Văn phòng luật sư X thuộc Đoàn luật sư thành phố Hải Phòng.

Địa chỉ: thành phố Hải Phòng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/4/2016, Vũ Văn H thành lập Công ty TNHH M Kon Tum đứng tên ông Vũ Văn Hưởng (con trai của H) làm giám đốc Công ty và đặt trụ sở tại thôn 1, xã I, huyện I, tỉnh Kon Tum.

Vào khoảng tháng 7/2018, ông Nguyễn Danh Đ và vợ là bà Trần Thị H1 - cùng trú tại tỉnh Gia Laỉ đã hùn vốn cổ phần 50% làm ăn chung cùng với Vũ Văn H để khai thác cát tại thôn 9, xã I, huyện I, tỉnh Kon Tum theo giấy phép khai thác khoáng sản số 994/GP-UBND ngày 18/9/2018 của UBND tỉnh Kon Tum. Trong khoảng thời gian này, Vũ Văn H ứng trước của ông Trần Văn T (sinh năm 1967, trú tại: tỉnh Gia Lai) số tiền 1.150.000.000đ (Một tỉ một trăm năm mươi triệu đồng) đồng thời thế chấp Giấy phép kinh doanh cùng con dấu Công ty TNHH M Kon Tum cho ông T giữ. Tuy nhiên, do công việc kinh doanh không thuận lợi bị thua lỗ, cùng với nợ nần tiền bạc bên ngoài nhiều nên ngày 25/01/2019, H đã thỏa thuận bán lại 50% cổ phần cho gia đình bà H1 với số tiền 1.750.000.000đ (Một tỉ bảy trăm năm mươi triệu đồng). Đồng thời đăng ký lại doanh nghiệp với hai thành viên là bà Trần Thị H1 và ông Phan Thanh S (Sinh năm 1965, trú tại: tỉnh Thái Nguyên). Trong đó, bà H1 có trách nhiệm thay H trả cho ông T số tiền là 1.150.000.000đ (Một tỉ một trăm năm mươi triệu đồng) để lấy lại giấy tờ và con dấu của Công ty TNHH M Kon Tum từ ông T đang giữ.

Số tiền 600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng) còn lại hai bên sẽ tính toán và thanh toán với nhau. Đồng thời, bà H1 hẹn đến ngày 01/02/2019 sẽ giao số tiền 1.150.000.000đ (một tỉ một trăm năm mươi triệu đồng) cho ông T và nhận lại toàn bộ giấy tờ và con dấu của Công ty.

Khoảng 14 giờ ngày 28/01/2019, Vũ Văn H và con rể là Nguyễn Đăng L (Sinh năm 1992, trú tỉnh Gia Lai) đến nhà bà Trần Thị H1 tại tỉnh Gia Lai để thanh toán số tiền còn lại về trả nợ. Tuy nhiên, sau khi hai bên tính toán với nhau, bà H1 trừ nợ hết số tiền còn lại, vì không thống nhất được số tiền thanh toán với nhau nên giữa hai bên chưa giải quyết xong.

Lúc này, Vũ Văn H có đề nghị bán lại cho bà Trần Thị H1 chiếc xe xúc lật với giá 300.000.000đ(Ba trăm triệu đồng), bà H1 đồng ý mua và hẹn đến sáng ngày hôm sau (29/01/2019) sẽ trả tiền, sau đó H đến nhà bà Trần Thị H2 (Sinh năm 1985, trú tại: tỉnh Gia Lai là người quen ở lại chờ lấy tiền, còn Nguyễn Đăng L đi về nhà tại , tỉnh Gia Lai.

Đến khoảng 18 giờ ngày 28/01/2019, bà Võ Thị H2 (H2 Báu, sinh năm 1971, trú tỉnh Gia Lai) đến nhà nói với bà H1 về việc H đang còn nợ bà H2 số tiền 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng). Khi biết bà H1 mua lại xe xúc lật của H vẫn chưa trả tiền, bà H2 đã nhờ bà H1 khi nào trả tiền cho H thì cho bà H2 đến trừ số tiền mà H còn nợ bà H2 luôn. Khoảng 20 giờ cùng ngày, bà H2 có gọi điện thoại cho H để đòi tiền nợ, H đã hẹn ngày 29/01/2019 sẽ trả.

Khoảng 07 giờ 25 phút ngày 29/01/2019, cho rằng bà Trần Thị H1 tính toán số tiền mà bà H1 trả cho mình không thỏa đáng, H đã mang theo một can nhựa loại 05 lít và điều khiển xe mô tô Attila (Biển kiểm soát 81K8 - 7579, mượn của vợ chồng bà Trần Thị H2) đến Cửa hàng số 37 Công ty xăng dầu B tại tỉnh Gia Lai mua 70.000 (Bảy mươi ngàn) đồng xăng E5 (khoảng 4,2 lít) rồi bỏ can xăng vào trong cốp xe mô tô chạy đến nhà bà Trần Thị H1 để giải quyết mâu thuẫn. Khi đến cầu số 3 trên đường P, H đã dừng lại đổ xăng ra hai bì ni lon (loại bì 0lkg) cột dây thun lại rồi bỏ hai bì xăng (mỗi bì đựng được khoảng 01 lít xăng) vào hai túi áo khoác Jean đang mặc và bỏ can xăng vào cốp xe mô tô điều khiển xe đến nhà bà H1.

Khoảng 08 giờ ngày 29/01/2019, khi ông Đoàn Hải Q (Sinh năm 1962, trú tại: tỉnh Gia Lai), ông Trần Văn N (Sinh năm 1964) và bà Đặng Thị L (sinh năm 1967) - cùng trú tại: tỉnh Gia Lai đang chà tường để quét sơn trước cổng nhà bà Trần Thị H1 thì Vũ Văn H đến và dựng xe trước cổng nhà hỏi: “Có ai ở nhà không?” rồi đi thẳng vào nhà tìm bà Trần Thị H1. Khi đến phòng ngủ trong cùng thì thấy bà H1 đang nằm ngủ, H hỏi: “Chưa dậy hả?”, bà H1 nói: “Chưa, tí nữa”. H đứng ở cửa phòng hỏi lấy 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) tiền bán xe xúc lật và tiền bán bãi cát, bà H1 nói: “Chỉ haỉ trăm rưỡi thôi”. Bức xúc về việc bị ép và thanh toán tiền không rõ ràng, H quay ra ngoài xe mô tô, mở cốp xe lấy can xăng đi vào cổng thì gặp chị H1 Thị Kim D (sinh năm 1982, trú tại: thành phố P) - là người đến dọn nhà cho gia đình bà H1. H đã đi thẳng phòng ngủ phía cuối nhà là phòng ngủ của bà H1, rồi đặt can xăng tại đường luồng phía bên tay trái, còn chị D đi xuống tầng hầm dọn dẹp. Khi đến cửa phòng ngủ H thấy bà H1 đang đánh răng tại phòng vệ sinh trong phòng ngủ, H đã đứng ở cửa phòng ngủ tay phải lấy một bì xăng bên túi áo khoác phải ra ném vào phòng ngủ bà H1, rồi tiếp tục dùng tay trái lấy một bì xăng từ túi áo khoác bên trái ra cầm ở tay trái bóp mạnh làm chảy xăng ra người và nền nhà. Tay phải lấy quẹt ga trong túi quần ra bật quẹt đốt bì xăng ném vào trong phòng ngủ bà H1. Lúc này lửa bùng cháy trên người H, đường luồng và trong phòng bà H1.

Chị D từ bếp chạy lên thấy lửa bùng cháy từ cửa phòng ngủ của bà H1, còn H bị lửa cháy ở hai ống quần chạy từ hướng phòng bà H1 ra phòng khách nằm lăn lộn kêu cứu dập lửa. Thấy vậy, ông Q, ông N và bà L đã chạy vào dùng nước, cởi áo khoác Jean của H ra dập lửa và kéo H ra ngoài hiên nhà. Sau khi được dập tắt lửa thì H bỏ chạy ra sau nhà cởi quần dài rồi nhảy xuống ao trốn.

Phát hiện cháy nhà, người dân đã điện báo cho Phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy và Cứu nạn cứu hộ Công an tỉnh Gia Lai đến chữa cháy thì phát hiện bà Trần Thị H1 đã chết tại nhà vệ sinh trong phòng ngủ, tài sản trong nhà bị thiệt hại lớn.

Sau khi gây án, Vũ Văn H được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Q y 211, thành phố P, tỉnh Gia Lai và Viện bỏng Quốc gia L thành phố H1 Nội với tình trạng bị bỏng 30% cơ thể (độ II - III) tại hai cẳng chân, hai bàn chân, vùng mặt sau của hai đùi, vùng lưng. Sau đó H được chuyển về Bệnh viện Q y 211 tiếp tục điều trị, đến ngày 21/5/2019 tình trạng sức khỏe của H đã ổn định và được xuất viện.

Khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường xảy ra tại nhà bà Trần Thị H1, số nhà 370/22 Phạm Văn Đồng, phường Đống Đa, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

Khu vực vị trí nơi xảy ra cháy tại phòng ngủ số 2 (phòng ngủ bà Trần Thị H1), có kích thước (3x3,3)m, có 01 cửa ra vào tại tường phía Đông (sát đường luồng). Kiểm tra thấy: Toàn bộ đồ dùng trong phòng, trần nhà gỗ, cửa chính, cửa ra vào phòng vệ sinh và cửa sổ bằng gỗ bị cháy, than hóa hư hỏng hoàn toàn. Chiều hướng cháy và tác động nhiệt theo hướng từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài. Trên sàn nhà, sản phẩm cháy, than hóa dày từ 5cm đến 50cm, nền phòng bị nứt vỡ và phòng rộp trong diện (2,8x2,5)m. Tại góc phòng phía Đông Nam phát hiện sản phẩm cháy than hóa và nhiệt tác động làm dính kết lại với nhau thành mảng, bám dính trên nền diện (50x3 0)cm.

Nơi phát hiện tử thi tại phòng vệ sinh ở góc phía Tây Nam phòng ngủ: phòng kích thước (1,4x1,3)m. Tại góc phía Đông Nam phòng phát hiện tử thi ở trạng thái ngồi, mông chạm sát nền, lưng và đầu tựa sát vào góc tường; hai tay co hờ trước bụng, các ngón tay nắm hờ; chân phải duỗi thẳng, chân trái co hình thước thợ; thân trên mặc áo thun ngắn tay, thân dưới mặc quần dài thun màu đen; bàn chân trái và bàn chân phải mang tất màu trắng và đi dép xốp màu xanh; Toàn thân và áo quần bị cháy sém, bỏng, bong tróc da và ám nhiều muội khói.

Mặt trong tường và trần nhà bị ám nhiều muội khói màu đen.

Trên nền phòng khách, vị trí cách cửa ra vào 2,9m, cách tường phía Đông 0,8m phát hiện 01 quẹt ga bằng nhựa màu vàng, bị nhiệt tác động làm hư hỏng.

Tại khu vực vườn phía sau nhà (phía Nam) vị trí cách tường rào phía Bắc 0,3m về phía Nam, cách góc tường rào phía Tây Bắc 2,4m về phía Đông Nam phát hiện một quần Kaki màu đen, ống quần bị cháy nham nhở, lưng quần mang dây nịt da màu vàng. Kiểm tra trong túi quần bên phải có 02 điện thoại di động (01 điện thoại di động Iphone vỏ màu đen và 01 điện thoại Nokia vỏ nhựa màu trắng), túi quần sau bên phải có 01 ví da màu nâu, bên trong ví có 01 CMND số 230928604; 01 thẻ bảo hiểm y tế; 02 thẻ ATM của ngân hàng VPBank và Agribank; 01 giấy phép lái xe tất cả mang tên Vũ Văn H và 746.000đ (bảy trăm bốn mươi sáu ngàn).

Cách vị trí quần 2,5m về phía Nam, cách góc tường rào phía Tây Bắc 3,6m về phía Đông Nam phát hiện một mảng da bị cháy sém kích thước (14,5x8) cm.

Trên nền xi măng nhà số 370/21 Phạm Văn Đồng phát hiện 01 xe mô tô hiệu Atila (Biển kiểm soát: 81K8- 7579). Kiểm tra trong cốp xe có một đôi găng tay màu nâu đen.

Thu giữ: 01 sản phẩm cháy trong phòng ngủ của bà Trần Thị H1; 01 quẹt ga; 01 quần Kaki; Nguồn hơi vị trí phòng khách, đường luồng, phòng ngủ bà Trần Thị H1 và phòng vệ sinh trong phòng ngủ; 2 điện thoại di động; 01 xe mô tô Atila; 01 đôi găng tay và lớp nỉ lót cốp xe; 746.000đ; 01 CMND mang tên Vũ Văn H.

Khám nghiệm tử thi bà Trần Thị H1 xác định:.

Tình trạng đầu, mặt: Tóc cháy nham nhở còn lại một phần, sờ nắn bên ngoài vùng đỉnh chẩm, hai bên thái dương cứng chắc. Mặt bị cháy đen và dính nhiều bụi than (muội đen), ở vùng trán, thái dương bên trái da, còn hai mắt, mũi và hai môi da co cứng, trong miệng và mũi có nhiều bụi, khói chất cháy màu đen. Hai vành tai cháy co cứng, ở giữa cổ da bong tróc màu đen.

Cổ, ngực, hai vai, lưng và hai chân: Bỏng trượt da độ II. Hai tay cháy bong tróc da màu đen (bỏng độ III). Toàn thân không có thương tích, sờ nắn khung xương cứng chắc.

Mổ 01 đường từ cổ xuống đến bụng, mô cơ đỏ màu hồng cánh sen, hệ thống mạch ở cổ căng phồng, ứ trệ, thanh mạc khí quản xung và xuất huyết, trong lòng khí quản tràn ngập khói bụi và chất cháy màu đen làm bít tắt đường thở (khí quản). Trong lồng ngực có ít dịch màu hồng, hai phổi phù màu hồng cánh sen, xẻ nhu mô phổi và các nhánh phế quản có nhiều máu màu đỏ tươi chảy ra. Trong lòng phế quản có nhiều chất dịch màu đen. Tim, gan, dạ dày và ruột màu đỏ hồng. Xẻ tim, gan có máu màu đỏ tươi chảy ra.

Thu giữ: bụi khói, chất màu đen bám dính ở vùng mặt, cổ; 01 mẫu mô trong lòng khí quản; chất cháy màu đen trong khí quản.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về từ thi số 13/2019/TT ngày 05/3/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai kết luận nguyên nhân chết của bà Trần Thị H1 là do : “Ngạt khí CO/Bỏng lửa độ II-III diện tích 90%”.

Tại Kết luận giám định số 112/C09(Đ4) ngày 20/02/2019 của Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận:

Mẫu khí ghi thu tại phòng ngủ và phòng vệ sinh; Mẫu khí ghi thu tại đường luồng của căn nhà; Mẫu khí ghi thu tại phòng ngủ và mẫu khí ghi thu tại phòng khách gửi giám định không tìm thấy xăng, dầu và hóa chất dễ cháy.

- Mẫu sản phẩm cháy ghi thu ờ góc phòng ngủ của bà Trần Thị H1; 02 (hai) mảnh vải ghi thu tại cổ áo nạn nhân; Chất màu đen bám trên cổ, mặt nạn nhân; Mẫu da bị cháy sém ghi thu sau nhà bà H1 gần chiếc quần kaki; Mẫu mô, chất bụi ghi thu trong lòng khí quản nạn nhân; Quần kaki ghi thu sau nhà bà H1; Áo khoác jean màu xanh và lót nỉ cốp xe mô tô hiệu Attila biển kiểm soát 81K8- 7579 gửi giám định đều có tìm thấy các hydrocacbon thuộc phân đoạn xăng.” Kết quả điều tra xác định tài sản của bà Trần Thị H1 và ông Nguyễn Danh Đ bị thiệt hại gồm: Phần diện tích nhà bị cháy hoàn toàn; Phần diện tích bị ảnh hưởng do phải sửa chữa và một số tài sản trong gia đình bị thiệt hại.

Tại Kết luận định giá tài sản số 07/HĐĐG-KL ngày 30/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Gia Lai kết luận giá trị tài sản bị thiệt hại tại thời điểm tháng 01/2019 tổng cộng là 458.122.975 (Bốn trăm năm mươi tám triệu một trăm hai mươi hai ngàn, chín trăm bảy mươi lăm) đồng.

Về trách nhiệm dân sự:

Gia đình bị hại đã yêu cầu bồi thường những khoản sau:

- Trị giá tài sản bị cháy: 248.000.000đ (Hai trăm bốn mươi tám triệu đồng).

- Chi phí xây lại và sửa chữa phần diện tích nhà bị hư hỏng hoàn toàn và phần diện tích bị hư hỏng trong nhà cần phải sửa chữa lại theo quy định của pháp luật.

- Chi phí mai táng bà H1: 104.000.000đ (Một trăm lẻ bốn triệu đồng).

- Tổn thất về tinh thần theo quy định của pháp luật.

- Cấp dưỡng nuôi con gái Nguyễn Thị U và bà Hoàng Thị C (mẹ của bà Trần Thị H1) theo quy định của pháp luật.

Bị cáo và gia đình đã bồi thường cho gia đình bị hại 355.000.000đ (Ba trăm năm mươi lăm triệu đồng).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HSST ngày 10/7/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn H phạm các tội: “Giết người”; “Hủy hoại tài sản”.

Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; khoản 3 Điều 178; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: bị cáo Vũ Văn H 19 (Mười chín) năm tù về tội “Giết người”, 07 (Bảy) năm tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Buộc bị cáo chịu hình phạt chung của cả hai tội là 26 (Hai mươi sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23/5/2019.

Về trách nhiệm dân sự:

Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Danh Đ về việc buộc bị cáo Vũ Văn H phải bồi thường cho ông số tiền 1.450.000.000 đồng Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự còn lại, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 15/7/2020, bị cáo Vũ Văn H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 20/7/2020 ông Nguyễn Danh Đ là người bị hại đồng thời là người đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo; đề nghị áp dụng tình tiết định khung “Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” đối với tội “Giết người” theo quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và đề nghị áp dụng khoản 4 Điều 178 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo về tội “Hủy hoại tài sản”; buộc bị cáo bồi thường cho gia đình ông Đ số tiền 1.450.000.000 đồng (Một tỷ bốn trăm năm mươi triệu đồng”.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vũ Văn H và người bị hại đồng thời là người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Nguyễn Danh Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị cáo Vũ Văn H cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử mức án quá nghiêm khắc nên xin giảm nhẹ hình phạt. Ông Nguyễn Danh Đ cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết định khung hình phạt “Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” được quy định tại điểm l khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là không đúng. Mức hình phạt Tòa án sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo Vũ Văn H là quá nhẹ nên ông Đ yêu cầu Tòa án phúc thẩm xử tăng hình phạt đối với bị cáo H về tội “Giết người” “Hủy hoại tài sản”. Số tiền1.450.000.000 đồng Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận là không đúng nên ông Đ yêu cầu Tòa cấp phúc thẩm chấp nhận cho gia đình ông Đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Văn H và kháng cáo của người bị hại đồng thời là người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Nguyễn Danh Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Lời bào chữa của luật sư cho bị cáo Vũ Văn H nhất trí về phần tội danh và khung hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo Vũ Văn H. Luật sư cho rằng nội dung kháng cáo của người bị hại là không có căn cứ. Trong vụ án, người bị hại bà Trần Thị H1 có lỗi, mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng để xét xử đối với bị cáo Vũ Văn H là quá nghiêm khắc nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Văn H giảm cho bị cáo H một phần hình phạt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình người bị hại cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết định khung hình phạt “Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người”được quy định tại điểm l khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là không đúng, vì bị cáo Vũ Văn H dùng xăng để đốt, lúc đó trong nhà bà Trần Thị H1 có nhiều người. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo Vũ Văn H là quá nhẹ nên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử tăng hình phạt đối với bị cáo H. Đối với số tiền 1.450.000.000đồng Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận là không đúng, vì trước ngày xảy ra vụ án bà Trần Thị H1 rút 200.000.000đồng của Ngân hàng mang về nhà và bị cáo H đã đốt cháy. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Văn H, chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Nguyễn Danh Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Bị cáo Vũ Văn H khai nhận tội, đối chiếu thấy phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do mâu thuẫn về việc tính toán nợ nần trong quá trình làm ăn với bà Trần Thị H1 nên vào khoảng 8h ngày 29/01/2019, Vũ Văn H đã mua xăng đựng trong can nhựa, phân ra 02 bì nilong rồi mang đến nhà bà Trần Thị H1. Khi đến cửa phòng ngủ của bà H1, bà H1 dậy đi đánh răng trong phòng, H đứng ở cửa phòng lấy 1 bì xăng ném vào phòng rồi tiếp tục lấy bì xăng nữa đem ra đốt ném vào phòng ngủ của bà H1. Hậu quả bà Trần Thị H1 chết và gây thiệt hại tài sản của vợ chồng bà Trần Thị H1, ông Nguyễn Danh Đ trị giá 458.122.975 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Vũ Văn H đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử về 02 tội “Giết người”, “Hủy hoại tài sản” theo điểm n khoản 1 Điều 123, khoản 3 Điều 178 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Vũ Văn H thì thấy: Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, mức độ phạm tội, đồng thời xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Vũ Văn H như: Sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường một phần thiệt hại, đã có thời gian cống hiến trong quân đội, có cha là người có công với nước, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba và xử phạt Vũ Văn H 19 năm tù về tội “Giết người”, 07 năm tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là 26 năm tù. Mức hình phạt trên là không nặng, tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Văn H cũng như lời bào chữa của luật sư cho bị cáo Vũ Văn H.

[3]. Xét kháng cáo của người bị hại đồng thời là người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Nguyễn Danh Đ thì thấy:

Đối với tội “Giết người”: Khi vào đến cửa phòng ngủ của bà Trần Thị H1, Vũ Văn H biết rõ trong phòng ngủ của bà H1 chỉ có một mình bà H1 đang đánh răng, còn những người khác đang đứng ngoài cổng và một người đang ở tầng hầm dưới phòng ngủ của bà H1. H ném xăng vào phòng ngủ của bà H1 và đốt gây ra cái chết cho bà H1. Do đó các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm, trong đó có Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết “Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người’ được quy định tại điểm l khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và xử phạt Vũ Văn H 19 năm tù là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với tội “Hủy hoại tài sản”: Bị cáo Vũ Văn H đã gây thiệt hại cho gia đình ông Nguyễn Danh Đ theo Kết luận giám định là 458.122.975 đồng nên hành vi của bị cáo Vũ Văn H đã phạm vào khoản 3 Điều 178 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo Vũ Văn H mức án 07 năm tù là hoàn toàn phù hợp.

Về phần trách nhiệm dân sự:

Đối với số tiền 1.450.000.000 đồng ông Nguyễn Danh Đ cho rằng đã bị cháy nên yêu cầu bị cáo Vũ Văn H bồi thường. Các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm nhận thấy, trong quá trình khám nghiệm hiện trường không phát hiện dấu vết tiền bị cháy, trong nhà có 01 két sắt còn nguyên vẹn; không có ai nhìn thấy hay xác định chính xác bà H1 có cất giữ tiền tại nhà vào thời điểm xảy ra vụ án nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Danh Đ về việc buộc bị cáo Vũ Văn H phải bồi thường số tiền 1.450.000.000 đồng là có cơ sở. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Đ không cung cấp chứng cứ gì mới. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của người bị hại đồng thời là người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Nguyễn Danh Đ cũng như quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4]. Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Vũ Văn H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Văn H và kháng cáo của người bị hại đồng thời là người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Nguyễn Danh Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, khoản 3 Điều 178, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Văn H 19 (mười chín) năm tù về tội “Giết người” và 07 (bảy) năm tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội buộc bị cáo Vũ Văn H phải chấp hành là 26 (hai mươi sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23-5-2019.

Về trách nhiệm dân sự:

Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Danh Đ về việc buộc bị cáo Vũ Văn H phải bồi thường cho ông Nguyễn Danh Đ số tiền 1.450.000.000 đồng.

2. Về án phí: Vũ Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự còn lại, phần xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 192/2021/HS-PT ngày 22/04/2021 về tội giết người và hủy hoại tài sản

Số hiệu:192/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về