Bản án 192/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về ly hôn giữa chị A và anh L

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PH T, TỈNH AG

BẢN ÁN 192/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ A VÀ ANH L

Ngày 29 tháng 4 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Ph T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 477/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2021/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Võ Kim Á, sinh năm 1978 (có đơn xin vắng mặt). Địa chỉ: ấp Vàm Nao, xã Tân Trung, huyện Ph T, tỉnh AG.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Quách Thanh Ph của Văn phòng luật sư Quách Ph thuộc Đoàn Luật sư tỉnh AG (có đơn xin vắng mặt).

2. Bị đơn: anh Trần Chí L, sinh năm 1981 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp Vàm Nao, xã Tân Trung, huyện Ph T, tỉnh AG.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn xin ly hôn ngày 16 tháng 11 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Võ Kim Á trình bày:

1. Quan hệ hôn nhân: Sau thời gian tìm hiểu về tình cảm, năm 2002 chị và anh Trần Chí L đồng ý kết hôn, năm 2005 đăng ký két hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Trung, huyện Ph T, tỉnh AG, Giấy chứng nhận kết hôn số 32/2005 ngày 23/5/2005. Vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2013 phát sinh mâu thuẫn do anh L thiếu quan tâm vợ con, có biểu hiện sống không chung thủy, nhiều lần chị góp ý nhưng anh L không sửa đổi. Từ tháng 5 năm 2017 đến nay vợ chồng ly thân. Nay, chị yêu cầu được ly hôn anh L.

2. Về nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên: Trần Thiện Khiêm, sinh ngày 10/7/2003; Trần Kim Yến, sinh ngày 02/11/2006, cả 02 con chị Á đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con.

3. Về chia tài sản và nợ chung: không có.

Ngày 01/3/2021 chị Á có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn là anh Trần Chí L đã được Toa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không cung cấp tài liệu, chứng cứ, nên không có lời khai, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Theo chị Á trình bày mâu thuẫn vợ chồng có cha mẹ chị và anh chồng tên Trần Văn An biết. Tại biên bản lấy lời khai của Tòa án ngày 06/01/2021, ông Võ Văn Bé (cha ruột chị Á) cho biết, sau khi cưới, ông cho vợ chồng Á – L mượn mảnh đất cất nhà liền kề với nhà ông, vợ chồng sống hạnh phúc. Ông không nhớ thời gian nào phát sinh mâu thuẫn do L không chung thủy, có quan hệ tình cảm với phụ nữ khác, vợ chồng lục đục và thường xuyên cự cãi. Từ năm 2017 đến nay anh L bỏ nhà đi và vợ chồng ly thân, không hàn gắn. Ông đề nghị Tòa án cho chị Á và anh L ly hôn.

Đối với anh Trần Văn An (anh ruột anh L), nhiều lần Tòa án đến nhà anh An tại ấp Bình Quới 2, xã Bình Thạnh Đông, huyện Ph T để xác minh nhưng không xác minh được do nhà đóng cửa, ông Võ Văn Trí (Trưởng ấp) cho biết ông An làm nghề đi ghe, thường xuyên vắng nhà.

Tại bài phát biểu của Luật sư Quách Thanh Phong, đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Võ Kim Á đối với anh Trần Chí L, giao 02 con chung tên Trần Thiện Khiêm, Trần Kim Yến cho chị Á nuôi dưỡng. Luật sư Phong đề nghị xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của pháp luật. Riêng anh Trần Chí L (còn gọi là Nu) là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, cho thấy anh L chưa chấp hành nghĩa vụ tố tụng dân sự.

Về nội dung, đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Võ Kim Á đối với anh Trần Chí L; về nuôi con chung: giao 02 con chung tên Trần Thiện Khiêm, Trần Kim Yến cho chị Á nuôi dưỡng, chị Á không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con, nên anh L không phải cấp dưỡng; chị Á phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: chị Võ Kim Á khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Trần Chí L, Tòa án thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Á và Luật sư Quách Thanh Phong là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Á đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; riêng anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Á, Luật sư Phong và anh L.

[2] Về nội dung:

[3] Hôn nhân của chị Á va anh L là hợp pháp, vì anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Xét tình trạng hôn nhân của anh chị thấy rằng vợ chồng mâu thuẫn do anh L ngoại tình, sống không chung thủy, thiếu quan tâm vợ con, vợ chồng có thời gian dài ly thân từ năm 2017 đến nay không hàn gắn, cha chị Á cho biết anh chị có mâu thuẫn và đề nghị Tòa án cho anh chị ly hôn. Cho thấy hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L, dề nghị của Luật sư và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát, cho ly hôn giữa chị Á và anh L.

[4] Về nuôi con chung: từ lúc ly thân đến nay chị Á nuôi con có cuộc sống ổn định, cháu Khiêm và cháu Yến có nguyện vọng sống với mẹ. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Á được tiếp tục nuôi cháu Khiêm và cháu Yến. Anh L không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng chị Á không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con là tự nguyện của chị, nên anh L không phải cấp dưỡng.

[5] Căn cứ khoản 3 Điều 82, Điều 83, 84, 116 Luật Hôn nhân và gia đình anh L không trực tiếp nuôi con, chị có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

[6] Chia tài sản: không có.

[7] Về nợ chung: ghi nhận chị Á xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

[8] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: chị Á phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83, 84, 116 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toa án Tuyên xử:

1. Quan hệ hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Võ Kim Á và anh Trần Chí L. Giấy chứng nhận kết hôn số 32/2005 ngày 23/5/2005 của Ủy ban nhân dân xã Tân Trung, huyện Ph T, tỉnh An Gang không còn giá trị pháp lý.

2. Về nuôi con chung: giao 02 con chung tên Trần Thiện Khiêm, sinh ngày 10/7/2003; Trần Kim Yến, sinh ngày 02/11/2006 cho chị Á trực tiếp nuôi, cả 02 con chị Á đang nuôi dưỡng. Anh Trần Chí L không phải cấp dưỡng cho con.

Anh L không trực tiếp nuôi con, anh có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản: không có.

Về nợ chung: ghi nhận chị Á xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: chị Á phải chịu 300.000đ, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0001740 ngày 25/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ph T, tỉnh AG.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 192/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về ly hôn giữa chị A và anh L

Số hiệu:192/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về