Bản án 192/2020/HSST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 192/2020/HSST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 187/2020/HSST ngày 10/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 174/2020/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1992; tại Hà Nội; nơi cư trú: Thôn X, xã Đ, huyện G, thành phố H; giới tính: Nam; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hoá 7/12; Quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ư, sinh năm 1964; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; tiền sự: Không Nhân thân: + Bản án số 328/2010/HSPT ngày 10/02/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 44 tháng về tội Cố ý gây thương tích tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (đã được xóa án tích) Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 30/8/2020, chuyển tạm giam ngày 05/9/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ ngày 29/8/2020, T đang ở nhà tại thôn X, xã Đ, huyện G, thành phố H nhận được điện thoại từ số thuê bao 0369726685 của Nguyễn Duy Sơn T (tên gọi khác Nguyễn Duy T)- Sinh: 1985, trú tại: Thôn Y, xã Đ, huyện G, thành phố H rủ T đi mua ma túy về để cùng nhau sử dụng, T đồng ý. T đi xe máy BKS: 30N9-1133 đi tìm mua ma túy. Trên đường đi, T sử dụng số điện thoại 0334561945 gọi cho đối tượng tên Quyết (không rõ nhân thân) hỏi mua 200.000 đồng ma túy, Quyết hẹn T ở ngã 5, Cầu Đuống, Gia Lâm để trao đổi mua bán ma túy. Khi đến chỗ hẹn, T gặp và mua của Quyết 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T gọi điện cho Nguyễn Duy T đến khu vực bãi gạch gần Cầu Trắng, Đình Xuyên, Gia Lâm để cùng sử dụng ma túy. Tại đây, T lấy ra một phần ma túy từ túi ma túy đá vừa mua được và cùng Thành sử dụng, số ma túy còn lại T cất giấu trong túi quần bên phải của T đang mặc. Sau khi sử dụng ma túy xong, T và Thành mỗi người điều khiển một xe máy đi dạo mát. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn Z, Xã Đ, huyện G, thành phố H thì T bị Cơ quan công an kiểm tra, bắt quả tang cùng vật chứng nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng đã thu giữ và phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilong màu trắng bên trong có chứa các tinh thể màu trắng; 01 xe máy nhãn hiệu AirBlade màu đen, BKS: 30N9-1133, số khung: RLHJF 1801AY406935, số máy: JF27E-0458627; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu vàng - trắng, số sim 0334561945 đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 7959/KLGĐ-PC09 ngày 08/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hà Nội: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,205 gam.

Tại bản cáo trạng số: 186/CT-VKSGL ngày 09-11-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đã truy tố Nguyễn Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38; Điều 47, của BLHS và Điều 106 của BLTTHS.

- Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 16 tháng đến 18 tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 30/8/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Không. Về xử lý vật chứng:

-Tch thu tiêu hủy 01 túi nilong màu trắng bên trong có chứa các tinh thể màu trắng được xác định là ma túy loại methamphetamine khối lượng 0,180 gam (đã trích mẫu 0,025gam);

- Tịch thu sung công 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu vàng - trắng, số sim 0334561945 đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn T do sử dụng vào việc phạm tội.

Nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn nhận tội và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, bản Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát huyện Gia Lâm đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 01 giờ 00 phút ngày 30/8/2020, tại khu vực đường Đình Xuyên, địa phận thôn Y, Xã Đ, huyện G, thành phố H, bị cáo Nguyễn Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,205 gam để sử dụng thì bị cơ quan Công an bắt giữ cùng vật chứng.

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đã có đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đề nghị truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Hiện nay ma túy là hiểm họa đối với con người, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa của con người. Bị cáo đã nhận thức được điều này nhưng vẫn ngang nhiên mua ma túy với mục đích để sử dụng là thể hiện sự coi thường đối với sức khỏe của chính mình, làm ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình, cũng như có thể làm phát sinh loại tội phạm khác. Vì vậy cần phải được xử lý bằng một bản án hình sự của Nhà nước mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng cũng như trong việc đấu tranh đối với loại tội phạm này nói chung.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[6] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa,bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[8] Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội cùng nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nhận định ở trên.

[9] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về nhân thân của bị cáo, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về hình phạt bổ sung:

[10] Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[11] Đối với 01 túi nilong màu trắng bên trong có chứa các tinh thể màu trắng được xác định là ma túy loại methamphetamine khối lượng 0,180 gam (đã trích mẫu 0,025gam) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần cho tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

[12] Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu vàng - trắng, số sim 0334561945 đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn T do T sử dụng điện thoại vào việc phạm tội (gọi cho Quyết để hỏi mua ma túy) nên cần tịch thu sung công là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Về các vấn đề khác:

[13] Đối với Nguyễn Duy Sơn Thành, bị can T khai là người rủ T đi mua ma túy và là người cùng T sử dụng ma túy nhưng Thành không thừa nhận. Ngoài lời khai của T không có tài liệu chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý đối Thành về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

[14] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị can T, do không xác định được nhân thân nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm không có căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

[15] Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade, BKS: 30N9-1133 thu giữ của T. Qua xác minh, đứng tên đăng ký xe là anh Nguyễn Đình Đ – sinh 1970, trú tại: thôn T, xã Đ, huyện G, thành phố H. Ngày 29/8/2020, khi cho T mượn xe máy, anh Đ không biết việc T sử dụng xe để đi mua ma túy. Do vậy, ngày 23/9/2020, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Gia Lâm đã trao trả chiếc xe máy cho anh Nguyễn Đình Đ là đúng quy định của pháp luật.

- Về án phí:

[16] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quyền kháng cáo:

[17] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 16 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/8/2020.

2. Về hình phạt bổ sung: Không.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

-Tch thu tiêu hủy 01 túi nilong màu trắng bên trong có chứa các tinh thể màu trắng được xác định là ma túy loại methamphetamine khối lượng 0,180 gam (đã trích mẫu 0,025gam);

- Tịch thu sung công 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu vàng - trắng, số sim 0334561945 đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn T do sử dụng vào việc phạm tội.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/11/2020).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 192/2020/HSST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:192/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về