Bản án 192/2020/HS-ST ngày 16/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 192/2020/HS-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 12 năm 2010, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 211/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 221/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Cao Hoàng T, sinh năm 1994, tại Tiền Giang; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 739 Trần Xuân S, phường Tân H, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 18/13B tổ 1, ấp 5, xã Phước K, huyện Nhà B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Cao Hoàng D và bà Trần Thị T1; bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 17/10/2019, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Phước K, huyện Nhà B ra Quyết định số 285/QĐ-UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Cao Hoàng T thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Nhân thân:

- Ngày 10/5/2019, bị Công an xã Phước K, huyện Nhà B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 0022970/QĐ-XPVPHC với số tiền 750.000 đồng đối với Cao Hoàng T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 19/02/2020, bị Công an xã Bình H, huyện Bình Ch lập biên bản vi phạm hành chính số: 0000519/BB-VPHC đối với Cao Hoàng T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/8/2020 – có mặt tại phiên tòa.

* Người tham gia tố tụng khác:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quốc T2 – Vắng mặt. Nơi cư trú: 239/10/11 Bà H, Phường O, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 10 phút, ngày 07/8/2020, Tổ tuần tra 363 Công an Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện đối tượng Cao Hoàng T đang điều khiển xe mô tô biển số 54K2- 0606 đến trước địa chỉ C4 tổ 193, ấp 4, xã Bình H, huyện Bình Ch có biểu hiện nghi vấn nên T hành dừng xe kiểm tra, qua kiểm tra T tự nguyện lấy trong túi quần phía trước bên phải ra 03 gói nylon chứa tinh thể không màu và khai nhận là ma túy tổng hợp (loại hàng đá), mục đích cất giữ để sử dụng. Do đó, tổ tuần tra phối hợp Công an xã Bình H tiến hành thu giữ vật chứng, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, đồng thời đưa T về trụ sở để lập hồ sơ ban đầu. Sau đó, vụ việc được chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh để điều tra xử lý.

Căn cứ Kết luận giám định số 1361/KLGĐ-H ngày 14/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Tinh thể không màu trong 03 gói nylon thu giữ của Cao Hoàng T được ký hiệu mẫu M đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,8385g (không phẩy tám ba tám năm gam) loại Methamphetamine”.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh, T khai nhận bản thân là người nghiện ma túy đá được khoảng 01 năm, do hết ma túy để sử dụng nên khoảng 19 giờ ngày 7/8/2020, T từ nhà tại địa chỉ 18/13B Lê Văn L, ấp 5, xã Phước K, huyện Nhà B điều khiển xe mô tô biển số 54K2-0660 đi đến hẻm C9 ấp 4A, xã Bình H, huyện Bình Ch, Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy đá về sử dụng. Tại đây, T gặp và mua 03 gói ma túy đá của một người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 700.000 đồng, mua ma túy xong T cất 03 gói vào trong túi quần phía trước bên phải rồi điều khiển xe chạy về nhà, khi đến trước địa chỉ C4 tổ 193, ấp 4, xã Bình H, huyện Bình Ch, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Cơ quan Công an kiểm tra và bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 199/CT-VKS ngày 19 tháng 10 năm 2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Cao Hoàng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị Xử phạt bị cáo với mức án từ 02 đến 03 năm tù. Giao Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh tiếp tục xác minh và truy tìm nguồn gốc 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu bạc có số IMEI: 355914 cùng 01 sim số trên sim có số 7622 và 01 xe mô tô Atila màu đen biển số 59K2-0660, số máy: D-075264, số khung: D-075264 để làm rõ xử lý sau.

2. Bị cáo Cao Hoàng T khai nhận hành vi như Cáo trạng truy tố và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]- Xét thấy lời khai tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, vật chứng của vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định vào ngày 07/8/2020, bị cáo Cao Hoàng T có hành vi tàng trữ 0,8385 gram loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân trước địa chỉ C4 tổ 193, ấp 4, xã Bình H, huyện Bình Ch, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị công an bắt quả tang.

[2]- Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý và sử dụng chất ma túy của Nhà nước, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gây ra các căn bệnh xã hội và các loại tội phạm khác. Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Số ma túy bị cáo tàng trữ, qua giám định có khối lượng 0,8385 gram loại Methamphetamine.

[3]- Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Cao Hoàng T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ pháp luật, đúng người đúng tội.

[4]- Xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu:

- Ngày 17/10/2019, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Phước K, huyện Nhà B ra Quyết định số 285/QĐ-UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Cao Hoàng T thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 10/05/2019, Công an xã Phước K, huyện Nhà B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 0022970/QĐ-XPVPHC với số tiền 750.000 đồng đối với Cao Hoàng T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 19/02/2020, Công an xã Bình H, huyện Bình Ch, thành phố Hồ Chí Minh lập Biên bản vi phạm hành chính số: 0000519/BB-VPHC đối với Cao Hoàng T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Tuy nhiên, bị cáo không biết ăn năn hối cải mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành phạt tù trong một thời gian nhất định tương xứng với tính chất mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5]- Xét thấy tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai cáo, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6]- Đối với người đàn ông “Không rõ lai lịch” đã bán ma túy cho T, do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh đang tiếp tục xác minh làm rõ, nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[7]- Về vật chứng vụ án:

- 03 gói nylon bên trong chứa tinh thể rắn không màu qua giám định có khối lượng 0,8385g là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu bạc có số IMEI: 355914 cùng 01 sim số trên sim có số 7622 là của một người bạn tên Đ (không rõ lai lịch) cho T mượn để lắp sim vào nghe, gọi. T không sử dụng điện thoại này để liên lạc mua ma túy nên giao trả lại cho bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 xe mô tô Atila màu đen biển số 59K2-0660, số máy: D-075264, số khung: D-075264 là do Đ cho T mượn. Qua xác minh chiếc xe này do Nguyễn Quốc T2 ngụ tại 239/10/11 Bà H, Phường O, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ sở hữu. Tuy nhiên, Công an Phường O, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh trả lời không có đương sự Nguyễn Quốc T2 cư trú tại địa chỉ trên. Ngày 19/9/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Giao Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh tiếp tục xác minh và truy tìm nguồn gốc 01 xe mô tô Atila màu đen biển số 59K2-0660, số máy: D-075264, số khung: D-075264 sẽ xử lý sau.

[8]- Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo cũng như giải quyết một phần xử lý vật chứng. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[9]- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10]- Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các hành vi, quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Xử phạt bị cáo Cao Hoàng T 03 (Ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/8/2020.

2. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu và tiêu hủy: 03 (ba) gói nylon bên trong chứa tinh thể rắn không màu qua giám định có khối lượng 0,8385g là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.

Giao trả cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu bạc có số IMEI: 355914 cùng 01 (một) sim.

Giao Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh tiếp tục xác minh và truy tìm nguồn gốc 01 xe mô tô Atila màu đen biển số 59K2-0660, số máy: D-075264, số khung: D-075264 sẽ xử lý sau.

(Các vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/11/2020, giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh) 3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 192/2020/HS-ST ngày 16/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:192/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về