Bản án 192/2020/HS-ST ngày 11/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 192/2020/HS-ST NGÀY 11/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường Tổ dân phố N, phường I, thành phố Đ, Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 184/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 199/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Trần Ngọc K, tên thường gọi khác: B; sinh ngày 25 tháng 3 năm 1995, tại Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú: 272/4 đường T, phường L, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nơi ở: không có nơi ở nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn):

09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê H, sinh năm 1958 và bà Trần Thị T, sinh năm 1963; vợ, con: chưa có; tiền sự: không:

Tiền án:

-Bản án số 150/2015/HSST ngày 12/8/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt bị cáo 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, châp hanh xong hình phạt tù ngày 07/02/2018.

-Bản án số 62/2019/HSST ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt bị cáo 15 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/02/2020, chưa được xoá án tích.

Nhân thân: Quyết định số 472/ UB ngày 08/3/2011 của Uỷ ban nhân dân thanh phô Đ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa bị cáo vào cơ sở giáo dưỡng 12 tháng vê hành vi “Trôm căp tai san”, đã xoá.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/5/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ. (Có mặt) - Bị hại:

1. Anh Nguyên Hưu T, sinh năm 1983; nơi cư trú: hẻm M, phường I, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Có mặt)

2. Ông Nguyên Ngoc S, sinh năm 1973; nơi cư trú: 49 đường T, phường I, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Vắng mặt)

3. Ông Đặng Việt C, sinh năm 1952; nơi cư trú: 6D đường đường T, phường I, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Trần Ngọc K là đối tượng có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa đươc xóa án tích. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, K không có nghề nghiệp ổn định. Đê co tiên tiêu xai, tư ngay 07/5/2020 đến ngày 11/5/2020 K đa th ực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản của người dân trên địa bàn thành phô Đ, cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 10 giơ 00 ngày 07/5/2020, K đi tơi đương hem M, phương I, thành phô Đ, phát hi ện ngôi nhà cua anh Nguyên Hưu T, tại hẻm M, phương I, thành phố Đ không có ngươi trông coi nên K nảy sinh y đinh trôm căp tai san. Thưc hiên y đinh, K trèo qua hàng rào rôi trèo lên ô thông gió c ủa cửa sổ phòng ngủ ở tầng trệt đột nhập vào trong nhà. Khi vào trong phòng ngủ, K lục lọi tài sản và l ấy trộm trong tủ quần áo được sô tiên 15.000.000 đồng, 01 xấp 31 thẻ cào đi ện thoại gôm cac m ệnh giá khác nhau (02 thẻ mệnh giá 20.000 đông, 19 thẻ mệnh giá 50.000 đông, 10 thẻ mệnh giá 100.000 đông), 01 lăc tay băng vang (không ro trong lương ). Sau khi lấy trộm sô tài sản trên, K mang chiêc lăc tay băng vàng tới tiệm vang M do anh Trân Hoang M làm chủ, bán được sô tiên 3.000.000 đông. Toàn bộ số tiền chiếm đoạt nói trên K đa tiêu xai ca nhân còn sô thẻ cào điên thoai K sư dung đê chơi game hêt.

Quá trình điều tra, bị hại anh Nguyễn Hữu T khai nhân bi mất sô tiên khoang 20.000.000 đông, 01 lăc tay băng vang 18k trong lương 5 chỉ, 31 thẻ điện thoại các loại trị giá 2.000.000 đông. Tuy nhiên, quá trình điều tra, xác minh, thì K chỉ thừa nhận trộm căp sô tiên 15.000.000 đông, 01 lăc tay băng vang (không ro trong lương ) và 31 thẻ cào điên thoai cac loai. Tại bản kết luận định giá tài sản số 166/KL-ĐG ngày 05/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ xác định 31 thẻ cào điện thoại các loại mệnh giá 20.000 đồng, 50.000 đồng và 100.000 đồng có tổng trị giá 1.990.000 đồng. Đối với chiếc lắc tay bằng vàng do không thu hồi được nên Hôi đông đinh gia tai san không có c ơ sở để định giá. Tông sô tai san K chiêm đoat cua anh Nguyên Hưu T xác định được có tổng trị giá là 16.990.000 (mười sáu triệu chín trăm chín mươi nghìn) đông. Anh T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.

Lần 2: Khoảng 09 giơ 00 ngày 11/5/2020, K tiếp tục đi bộ đến đương T, phương I, thành phố Đà Lạt, khi đi đên nha của anh Nguyên Ngoc S, tại địa chỉ 49 đương T thì K thấy căn nhà đóng cửa, không co ngươi trông coi nên K leo lên lan can tâng 2 rôi đột nhập vào trong nhà, lục tìm và lấy trộm được sô tiên 3.500.000 đông, 65 đô la Uc va 08 đô la My. Sau đó, K mang sô tiên ngoai tê đi ban cho môt ngươi đi đương đươc 1.000.000 đông và đã tiêu xai ca nhân hêt. Tại bản kết luận định giá tài sản số 166/KL- ĐG ngày 05/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ xác định 65 đô la Uc va 08 đô la My có tổng trị giá là 1.156.470 đồng. Tông sô tai san K chiêm đoat cua anh Nguyên Ngoc S trị giá là 4.656.470 (bốn triệu sáu trăm năm mươi sáu nghìn bốn trăm bảy mươi) đông, anh S yêu câu bi c áo bôi thường số tiền 5.000.000 (năm triệu) đông.

Lần 3: Sau khi trôm căp tai san cua anh Nguyên Ngoc S, K đi bộ theo hướng ra cầu M, phương I, thành phố Đà Lạt thì phát hi ện căn nhà cua ông Đ ặng Việt C ở địa chỉ 6D đương T, phường I, thành phố Đ không co ngươi trông coi nên K trèo rào và đột nhập vào trong nhà. Khi vào tới phòng ngủ, K lục tim tai san va lây trôm sô tiên 58.000.000 đông; 01 hôp hinh vuông mau đo bên trong co  02 đông hô nư nhan hiê u KIMIO va RADO, 01 sơi dây chuyên vang va 01 mê đay loai vang 18k năng 1,43 chỉ; 01 đôi bông tai vang co đinh đa Theramic, loại vàng 18k, trọng lượng 0,75 chỉ cùng một số trang sức khác (không ro loai va trong lương). Sau khi trôm căp đươc sô tai san trên, K đi đến tiệm vàng M bán số trang sức vừa lấy trôm đư ợc số tiền 17.700.000 đồng. Toàn bộ số tiền chiêm đoat đươc cua ông C, K đa tiêu xai ca nhân hêt, đôi vơi 02 chiêc đông hô K cât giâu ơ nhà nghỉ KN ở đường P, phường H, thành phố Đ nơi K thuê để ở.

Tại các kết luận định giá tài sản số 166/KL-ĐG ngày 05/8/2020 và số 208/KL-ĐG ngày 16/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ xác định 01 sơi dây chuyên va mê đay, loại vàng 18k năng 1,43 chỉ trị giá 3.946.800 đồng:

01 đôi bông tai đinh đa theramic vang , loại vàng 18k năng 0,75 chỉ trị giá 2.070.000 đồng; và 01 chiêc đông hô nhãn hiệu KIMIO trị giá 180.000 đồng và 01 chiêc đông hô nhãn hiệu RADO trị giá 500.000 đông. Đối với số trang sức bằng vàng khác do không thu hôi đươc, bị hại ông C không cung cấp được hoá đơn mua hàng nên Hôi đông đinh giá tài sản không có c ơ sở để định giá. Tông sô tài sản K chiêm đoat của ông Đặng Việt C xác định được có tổng trị giá 64.696.800 (sáu mươi bốn triệu sáu trăm chín mươi sáu nghìn tám trăm) đông, ông C yêu câu bi c áo bôi thương sô tiên 100.000.000 (một trăm triệu) đông.

Cáo trạng số 183/CT-VKS ngày 23/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Lê Trần Ngọc K về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b, c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình thực hiện như nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo, không có nội dung gì thay đổi. Bị cáo đồng ý bồi thường cho anh Nguyễn Ngọc S số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng.

Bị hại anh Nguyễn Hữu T trình bày xác nhận lời khai của bị cáo là đúng. Gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh T số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng. Anh T yêu cầu bị cáo bồi thường tiếp cho anh số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo K đồng ý bồi thường tiếp cho anh T số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng.

Bị hại ông Đặng Việt C trình bày ông bị mất số tiềm mặt là 58.000.000 đồng và các trang sức bằng vàng theo bảng thống kê tài sản mà ông đã cung cấp tại cơ quan điều tra (BL 105), ông chỉ cung cấp được một số hoá đơn mua vàng, còn lại do thất lạc hoá đơn nên ông không cung cấp được. Tổng giá trị tài sản mà ông bị mất cắp khoảng 100.000.000 đồng. Ông C yêu cầu bị cáo bồi thường cho ông số tiền tương ứng là 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường cho ông C số tiền 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng.

Bị cáo, bị hại anh T, ông C không thắc mắc gì về nội dung bản cáo trạng, không thắc mắc khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản, các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng trình bày luận tội, tranh luận đối với bị cáo: giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Trần Ngọc K về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng số 183/CT-VKS ngày 23/10/2020. Qua phân tích đánh giá tính chất mức độ về hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đề nghị tuyên bố bị cáo Lê Trần Ngọc K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về trách nhiệm hình sự: áp dụng điểm b, c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: đề nghị xử phạt bị cáo Lê Trần Ngọc K từ 05- 06 năm tù.

- Về trách nhiệm dân sự: đề nghị buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho các bị hại ông Nguyên Ngoc S sô tiên 5.000.000 (năm triệu) đông; bồi thường tiếp cho anh Nguyên Hưu T số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng; bồi thường cho ông Đăng Viêt C sô tiên 80.000.000 (tám mươi triệu) đông.

- Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã trả lại 01 hôp hinh vuông mau đo kich thươc 10x10x3cm; 02 đông hô nư nhãn hiệu KIMIO và RADO cho ông Đăng Viêt C nên không đề cập.

Bị cáo, bị hại anh T, ông C không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin lỗi bị hại và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, các bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tố tụng: bị hại ông Nguyễn Ngọc S có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên toà, xét thấy việc vắng mặt của ông S không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3]. Về căn cứ kết tội bị cáo: Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định: Bị cáo Lê Trần Ngọc K là đối tượng đã có 02 tiên án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xoá án tích. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, từ ngày 07/5/2020 đến ngày 11/5/2020, lợi dụng lúc không có người ở nhà, bị cáo K liên tục 03 lần đột nhập vào nhà của người dân trên địa bàn thành phố Đ thực hiện hành vi lén lút trộm cắp tài sản gồm tiền mặt, thẻ cào điện thoại và trang sức có giá trị để tiêu xài cá nhân và làm nguồn sống chính cho bản thân, cụ thể: bị cáo cắp tài sản của anh Nguyên Ngọc S với tổng trị giá 4.656.470 đông, trộm cắp tài sản của anh Nguyên Hưu T trị giá 16.990.000 đông, trộm cắp tài sản của ông Đăng Viêt C trị giá 64.696.800 đông. Hành vi của bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bị cáo K phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, có tính chất chuyên nghiệp, tổng giá trị tài sản bị cáo K chiếm đoạt của các bị hại nói trên là 86.343.270 đông (tám mươi sáu triệu ba tră m bôn mươi ba ngàn hai trăm bảy mươi đồng ) nên phạm vào tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm b, c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Quá trình điều tra, bị cáo khai sô vang ma bi cáo đa trôm căp cua anh Nguyên Hưu T và ông Đặng Việt C, bị cáo mang bán cho cưa hang mu a ban vang M, do ông Trân Hoàng M là chủ cửa hàng. Tuy nhiên, quá trình điều tra không xác định được ông M mua sô vang trên cua bị cáo K nên Cơ quan điều tra không co căn cư đê xư ly đối với ông M là đúng quy định.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo phạm tội 03 lần nên áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, gia đình bị cáo đã bồi thường một phật thiệt hại cho anh T và được anh T xin giảm nhẹ hình phạt nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5]. Về quyết định hình phạt: xét thấy, bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để sửa chữa sai lầm của mình mà sau khi chấp hành hình phạt tù trở về địa phương, bị cáo lại tiếp tục nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân và đặc biệt là thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo nên cần xử bị cáo hình phạt thật nghiêm khắc, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[6]. Về hình phạt bổ sung: theo tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện bị cáo không có việc làm, không có thu nhập, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên toà, bị cáo K đồng ý bồi thường cho ông Nguyên Ngoc S sô tiên 5.000.000 (năm triệu) đông; bồi thường tiếp cho anh Nguyên Hưu T số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng; bồi thường cho ông Đăng Viêt C sô tiên 80.000.000 (tám mươi triệu) đông. Xét thấy đây là sự tự nguyện, thoả thuận của bị cáo với bị hại và phù hợp với quy định của pháp luật nên công nhận. Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho ông Nguyên Ngoc S sô tiên 5.000.000 (năm triệu) đông; bồi thường tiếp cho anh Nguyên Hưu T số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng; bồi thường cho ông Đăng Viêt C sô tiên 80.000.000 (tám mươi triệu) đông.

[8]. Về xử lý vật chứng: Ngày 09/10/2020 Cơ quan canh sat điêu tra đa ra Quyêt đinh xư lý vật chứng trả lại 01 hôp hinh vuông mau đo kich thươc 10x10x3cm; 02 đông hô nư nhan hiêu KIMIO va RADO cho ông Đăng Viêt C là đúng quy định.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Lê Trần Ngọc K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b, c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt Lê Trần Ngọc K 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 17/5/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự: Công nhận sự thoả thuận giữa bị cáo và bị hại anh T, ông C, ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của bị cáo đối với bị hại ông S:

Buộc bị cáo Lê Trần Ngọc K có trách nhiệm bồi thường cho ông Nguyên Ngoc S sô tiên 5.000.000 (năm triệu) đông; bồi thường tiếp cho anh Nguyên Hưu T số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng; bồi thường cho ông Đăng Viêt C sô tiên 80.000.000 (tám mươi triệu) đông.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo K phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 4.750.000 (bốn triệu bảy trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại anh T, ông C có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại ông S vắng mặt tại phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 192/2020/HS-ST ngày 11/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:192/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về