Bản án 192/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 192/2020/HS-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 12 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 201/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 198/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Công T, sinh năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 3/11B ấp 2, xã T, huyện H, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn X và bà Đặng Thị Kim L; bị cáo chưa có vợ con; Nhân thân: Ngày 10.01.2006 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp giật tài sản”, Ngày 24.5.2011 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; Tiền án: Ngày 28.12.2012 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 08 năm tù về tội “Giết người”, tổng hợp hình phạt 02 năm tù xử ngày 10.01.2006 buộc bị cáo chấp hành hình phạt 10 năm tù, tiền sự: không; bị cáo bị bắt từ ngày 28.6.2020 cho đến nay; hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Hóc Môn; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 27.6.2020, qua mở rộng công tác truy xét trong vụ án Mua bán trái phép chất ma túy, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an huyện Củ Chi kiểm tra nhà Hoàng Văn M tại số 96 Võ Công Tồn phường Tân Quý, quận Tân Phú, tại đây có mặt Huỳnh Văn T, Phạm Văn T, Lê Công T. Qua làm việc Lê Công T khai nhận phụ giúp cho M chăm sóc cây kiểng và được cho ma túy để sử dụng. Tiến hành khám xét nơi ở của Lê Công T tại số 3/11B ấp 2, xã T, huyện H, công an thu giữ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (ký hiệu mẫu m1), 01 gói nylon chứa chất bột màu hồng (ký hiệu mẫu m2) và 03 viên nén màu hồng (ký hiệu mẫu m3). Sau đó cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Củ Chi tạm giữ T cùng vật chứng và chuyển đến cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Hóc Môn thụ lý theo thẩm quyền.

Tại cơ quan điều tra T khai nhận: bản thân là người nghiện ma túy, nguồn ma túy do Hoàng Văn M trả công cho T để sử dụng. Cụ thể ngày 24.6.2020 T, M cùng một số người đến quận Tân Phú hát karaoke và sử dụng ma túy, do thấy ma túy còn dư nên T lấy đem về nhà cất giấu và bị kiểm tra thu giữ như nội dung trên.

Lời khai của bị can T phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 1111/KLGĐ-H ngày 07/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

+ Tinh thể không màu (ký hiệu mẫu m1) đưa đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,6688g, loại Methamphetamine.

+ Bột màu hồng (ký hiệu mẫu m2) đưa đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2669g loại MDMA, Ketamine.

+ 03 viên nén màu hồng (ký hiệu mẫu m3) đưa đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,7855g loại MDMA, Ketamine.

Đối với các đối tượng M, T, T, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Củ Chi đã khởi tố xử lý trong vụ án khác.

Vật chứng:

- 01 gói niêm phong:

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy:

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đen đã cũ:

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ đã cũ:

- Số tiền 4.000.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 190/CT-VKS-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn để xét xử bị cáo Lê Công T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị tuyên bị cáo Lê Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Công T từ 02 năm đến 03 năm tù. Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đen đã cũ. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ đã cũ và số tiền 4.000.000 đồng.

Bị cáo Lê Công T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu và xin được hưởng mức án nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Công T khai nhận: Bản thân nghiện ma túy, để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo đã có hành vi tàng trữ 1,6688g loại Methamphetamine và 3,0524g loại MDMA, Ketamine để sử dụng thì bị công an bắt quả tang cùng với tang vật.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các vật chứng cùng các tài liệu thể hiện tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn đã truy tố. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở pháp lý để kết luận bị cáo Lê Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ Luật Hình Sự của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo thừa biết ma túy là chất gây nghiện mang tính độc hại cao, đã bị nhà nước cấm mua bán, tàng trữ dưới bất kỳ hình thức nào. Bản thân bị cáo để thỏa mãn cơn nghiện, nên bị cáo bất chấp mọi hậu quả lao vào con đường phạm tội, thực hiện hành vi tàng trữ ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu cho bản thân. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét về nhân thân, tính chất mức độ và hậu quả của hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Về nhân thân bị cáo:

Ngày 10.01.2006 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp giật tài sản”.

Ngày 24.5.2011 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Tiền án: Ngày 28.12.2012 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 08 năm tù về tội “Giết người”, tổng hợp hình phạt 02 năm tù xử ngày 10.01.2006 buộc bị cáo chấp hành hình phạt 10 năm tù.

Tiền sự: không.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là phù hợp.

[6] Tình tiết tăng nặng: Tái phạm.

[7] Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người nghiện ma tuý, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong là ma túy ở thể rắn, là vật cấm lưu hành và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đen đã cũ, bị cáo dùng vào việc phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ đã cũ, bị cáo không dùng vào việc phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với số tiền 4.000.000 đồng là tiền cá nhân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại cho bị cáo số tiền này.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lê Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Công T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 28.6.2020.

2. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong là ma túy ở thể rắn và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đen đã cũ.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ đã cũ và số tiền 4.000.000 đồng.

(Vật chứng của vụ án do Chi cục thi hành án dân sự huyện Hóc Môn đang quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 150/QĐ-VKS-HS ngày 23.10.2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn).

3. Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 192/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:192/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về