Bản án 192/2018/HSST ngày 05/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 192/2018/HSST NGÀY 05/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 05 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 194/2018/HSST ngày 16 tháng 10 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Lò Văn L; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1997; nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; con ông: Lò Văn Th – SN: 1973 và bà Lò Thị P – SN: 1976; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự : Không. Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 07/8/2018 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Cà Văn H; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1997; nơi cư trú: Bản S, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; con ông: Cà Văn H ( Đã chết ) và bà Lường Thị X – SN: 1977; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 07/8/2018 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Đàm Mạnh Hùng – Luật sư, thuộc đoàn Luật sư tỉnh Sơn La ( Có mặt ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 07/8/2018, tại khu vực bản Nà Cát, xã Chiềng La, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an xã Chiềng La, huyện Thuận Châu, phát hiện bắt quả tang 02 đối tượng: Lò Văn L ( SN: 1997, trú tại: Bản N - C - Thuận Châu - Sơn La ) và Cà Văn H ( SN: 1997, trú tại: Bản S - C - Thuận Châu - Sơn La ) về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ từ các đối tượng gồm: 

- 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa một ít chất bột cục màu trắng ( Theo các đối tượng L và H khai nhận là Heroin);

- 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa ½ viên nén hình trụ tròn màu hồng (Theo các đối tượng L và H khai nhận là Hồng phiến );

- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, BKS: 27Z1 – 076.45.

Kết quả cân tịnh số bột màu trắng thu giữ của các đối tượng L + H có khối lượng là 0,08 gam, đánh ký hiệu LH1 sử dụng toàn bộ làm mẫu vật gửi giám định.

Kết quả cân tịnh ½ viên nén hình trụ tròn màu hồng thu giữ của các đối tượng L + H có khối lượng là 0,05 gam, đánh ký hiệu LH2 sử dụng toàn bộ làm mẫu vật gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 945/KLMT ngày 14/8/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu vật gửi giám định ký hiệu LH1 là chất ma túy, loại chất Heroine, khối lượng là 0,08 gam; Mẫu vật gửi giám định ký hiệu LH2 là chất ma túy, Loại chất Methamphetamine; Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,08 gam loại Heroine và 0,05 gam loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La các bị can Lò Văn L và Cà Văn H đã khai nhận như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 07/8/2018, trong khi L đang đi bộ ở ngã ba bản Ngà, xã Chiềng Pha, huyện Thuận Châu, thì nhìn thấy H điều khiển xe máy tới, L liền rủ H đến bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu để mua ma túy về cùng nhau sử dụng. Được H đồng ý nên L trực tiếp điều khiển xe máy của H chở H đến bản Thôm, xã Thôm Mòn. Tuy nhiên khi cả hai đi đến bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn thì L và H đã gặp và mua được của 01 người đàn ông không quen biết đang đứng ở ven đường một gói Heroin và ½ viên hồng phiến được gói riêng thành 02 gói bằng ni lon màu trắng, với giá 80.000đ ( Tám mươi ngàn đồng ) bằng tiền của L. L nhận 02 gói ma túy sau đó đưa cho H cầm ở tay phải rồi điều khiển xe máy đến khu vực trường THCS xã Chiềng Pha, huyện Thuận Châu. Tại đây H đưa lại 02 gói ma túy cho L, L cất dấu 02 gói ma túy và túi quần sau bên trái đang mặc rồi tiếp tục điều khiển xe máy về xã Chiềng La để tìm địa điểm sử dụng. Tuy nhiên khi cả hai di chuyển đến đoạn đường thuộc khu vực bản Cát, xã Chiềng La, huyện Thuận Châu, thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng La, huyện Thuận Châu, phát hiện bắt quả tang vật chứng là 02 gói ma túy như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 162/CT - VKS ngày 16/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố các bị can Lò Văn L và Cà Văn H về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố các bị cáo Lò Văn L và Cà Văn H, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 –điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 17, 38, 58 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 14 đến 18 tháng tù.

- Tuyên bố bị cáo Cà Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 14 tháng tù.

* Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, đối với 02 bị cáo.Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 - khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; 

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ số vật chứng gồm: 01 mảnh ni lon màu xanh + 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

* Chấp nhận việc xử lý vật Chứng của cơ quan Điều tra đã trả lại chiếc xe máy BKS: 27Z1 – 076.45 cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Tòng Thị T.

Tại phiên tòa các bị cáo Lò Văn L và Cà Văn H cùng có ý kiến: Thừa nhận ngày 07/8/2018 bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ 0,08 gam Heroin và 0,05 gam Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân, nguồn gốc ma túy bị bắt giữ là mua của 01 người đàn ông không quen biết tại bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu. Nay các bị cáo đã biết tội mong được Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa: Người bào chữa cho các bị cáo có ý kiến: Các bị cáo cùng phạm tội lần đầu; bản thân cùng là người mắc tệ nạn xã hội – Nghiện ma túy là nguyên nhân dân đến hành vi phạm tội; khối tượng ma túy các bị cáo tàng trữ trong vụ án không lớn. Do vậy đề nghị HĐXX nhất trí áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 – điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 17, 38, 58 Bộ luật hình sự; Để xử phạt 02 bị cáo mức án 12 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 07/8/2018, bị cáo Lò Văn L và Cà Văn H ( Có căn cước lý lịch như trên ) bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý (0,08 gam Heroin và 0,05gam Methamphetamine ) với mục đích sử dụng cho bản thân. Căn cứ vào lời khai của bị cáo L là người rủ rê bị cáo H đi mua ma túy về đểcùng nhau sử dụng cùng sự thừa nhận của bị cáo H. Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo là những người có hiểu biết pháp luật, nhận thức rõ hành vi mua, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội và bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau; phù hợp với Kết luận giám định về vật chứng thu giữ là ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận các bị cáo Lò Văn L và Cà Văn H đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi; Tội phạm các bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Cụ thể hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước là xâm hại đến chính sức khỏe của các bị cáo, sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển . . . trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương. Tội phạm các bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Do đó cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo các bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[4] Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ các bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[5] Trong vụ án 02 bị cáo đồng phạm về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, trong đó bị cáo Cà Văn L là người khởi xướng và bỏ tiền mua ma túy. Bị cáo Cà Văn H là người hưởng ứng bằng việc sử dụng xe máy mượn của người khác làm phương tiện tìm mua ma túy về để cùng nhau thỏa mãn cơn nghiện. Do đó cần áp dụng Điều 58 Bộ luật hình sự; để đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của mỗi bị cáo trong vụ án khi quyết định hình phạt.

[6] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào kết quả xác minh xác định các bị cáo đều không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[7] Tình tiết tăng nặng: Không.

[8] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn. Nên cùng được áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[9] Xử lý vật chứng:

- Vật chứng là 0,08 gam Heroin và 0,05 gam Methamphetamine là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo, đồng thời là vật nhà nước cấm lưu hành. Tuy nhiên đã sử dụng hết trong quá trình giám định, do vậy không đặt ra vấn đề xử lý.

- Vật chứng là 02 mảnh ni lon màu trắng + 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự – khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Để tuyên tiêu hủy.

- Đối với vật chứng là chiếc xe máy BKS: 27Z1 – 076.45 cơ quan Điều tra đã trả cho chị Tòng Thị T ( Địa chỉ: Bản Xôm, xã Quài Tở, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên ). Căn cứ vào kết quả điều tra xác định khi cho bị cáo Cà Văn H mượn xe chị T không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, do vậy cơ quan Điều tra đã giao trả lại vật chứng là chiếc xe máy nêu trên cho chị T là có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự – khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự.

[10] Đối với nguồn gốc 0,08 gam Heroin và 0,05 gam Methamphetamine bị bắt giữ, theo các bị cáo khai do mua của 01 người đàn ông không quen biết tại bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu. Xét ngoài lời khai duy nhất của các bị cáo ra thì không còn chứng cứ gì khác chứng minh. Do vậy cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ.

[11] Bị cáo H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Bị cáo L thuộc hộ gia đình nghèo nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

[12] Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 – các điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38, 58 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn L và Cà Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn L 14 ( Mười bốn ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 07/8/2018 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).

- Xử phạt bị cáo Cà Văn H 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 07/8/2018 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 – khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 02 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh – đỏ.

3. Án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Buộc bị cáo Cà Văn H nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ ( Hai trăm ngàn đồng ).

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Miễm cho bị cáo Lò Văn L không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Báo cho các bị cáo biết quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 192/2018/HSST ngày 05/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:192/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về