Bản án 19/2021/ST-HNGĐ ngày 23/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA BÌNH, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 19/2021/ST-HNGĐ NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lý Thị T, sinh năm 1980 (Vắng mặt). Địa chỉ: VD LDT DH BL

Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc H, sinh năm 1967 (Vắng mặt). Địa chỉ: VT, VT, HB, BL

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn là chị Lý Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Quốc H xây dựng hôn nhân vào năm 1999, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương nhưng không có đăng kí kết hôn. Quá trình chung sống chị và anh H có 01 con chung tên là Nguyễn Quốc Kiển, sinh ngày 17/11/1999 đang sống chung với anh H; vợ chồng chị không có tài sản chung và không có nợ chung.

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng có cuộc sống không hòa hợp, thường xuyên bất đồng quan điểm, cự cãi với nhau dẫn đến cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc; vợ chồng chị đã sống ly thân khoảng 03 năm nay; trong thời gian ly thân chị và anh H không có tìm nhau để hàn gắn quan hệ hôn nhân mà mỗi người tự sống riêng.

Nay, chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Quốc H; con chung đã thành niên, tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị không còn ý kiến trình bày gì thêm.

Bị đơn là anh Nguyễn Quốc H trình bày (Biên bản lấy lời khai ngày 22/03/2021): Ý kiến trình bày của anh H anh hoàn toàn thống nhất với ý kiến trình bày của chị Lý Thị T. Anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị T; con chung đã thành niên, tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, anh không còn ý kiến trình bày gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình phát biểu ý kiến:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Không công nhận chị Lý Thị T và anh Nguyễn Quốc H là vợ chồng.

Về án phí sơ thẩm hôn nhân gia đình: Chị Lý Thị T phải chịu 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liêu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn Chị Lý Thị T và anh Nguyễn Quốc H là bị đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu khởi kiện của chị Lý Thị T thấy rằng:

quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Nguyễn Quốc H là hôn nhân có xảy ra trên thực tế, chị T và anh H đã có thời gian dài chung sống với nhau từ năm 1999 nhưng chị T và anh H lại không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Nguyên nhân mâu thuẩn giữa chị T và anh H do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, từ đó dẫn đến mâu thuẩn càng trầm trọng, chị T và anh H đã sống ly thân với nhau khoảng 03 năm nay và đồng thời chị T và anh H đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, do chị T và anh H không đăng ký kết hôn, do đó không được xem xét là hôn nhân hợp pháp, đã vi phạm Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 “ Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Vì vậy không công nhận chị T và anh H là vợ chồng.

[3] Về con chung đã thanh niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh H xác định không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu xem xét giải quyết.

[5]Về án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình chị Lý Thị T phải chịu 300.000đồng.

Đối với đề nghị của Viện kiểm sát là hoàn toàn phù hợp được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khon 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận chị Lý Thị T và anh Nguyễn Quốc H là vợ chồng.

2. Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị Lý Thị T phải chịu 300.000 đồng, chị T đã tạm dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0010516 ngày 08/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa Bình chuyển thu án phí.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2021/ST-HNGĐ ngày 23/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:19/2021/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về