TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 19/2021/HS-ST NGÀY 15/042021 VỀ TỘI LÀM GIẢ VÀ SỬ DỤNG TÀ̀I LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 15 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2021/TLST- HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 192/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Đỗ Minh H, sinh ngày 21/12/1997 tại huyện G, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: thôn Đ, xã Đ, huyện G, tỉnh Hải Dương; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Buôn bán; con ông Đỗ Quốc Nh và bà Nguyễn Thị O; chưa có vợ con; tiền án , tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏ̉i nơi cư trú; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên toà.
2. Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 22/3/1993 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: thôn 8, xã Tr , huyện B , tỉnh Quảng Bình; giới tính: Nữ; quốc tị̣ch: Việt Nam , dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Hữu H và bà Phan Thị L;chưa có chồng con; tiền án , tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏ̉i nơi cư trú; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên toà
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Anh Đình Phúc Th, sinh năm 1995; nơi cư trú: thôn Qu, xã Th, huyện M, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.
- Chị Nguyễn Thị Hồng N h, sinh năm 1990; nơi ĐKHKTT: thôn N, xã V, huyên B, tỉnh Quảng Bình; nơi ở hiện nay: số n Đ khu phố B 4, A, huyện D, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 02/6/2016, Nguyễn Thị Thu H được Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Quảng Bình cấp Hộ chiếu lần đầu số C1667390. Tháng 8/2016 H sử dụng Hộ chiếu này xuất cảnh sang Liên bang Nga lao động. Đến tháng 8/2019, do cư trú và lao động bất hợp pháp nên H bị trục xuất về nước. Tháng 7/2020, do muốn nhập cảnh trở lại Liên bang Nga lao động nên H đã tìm hiểu qua mạng xã hội, được biết Đỗ Minh H nhận làm giả “Giấy chứng minh nhân dân” và “Hộ chiếu” với chi phí 1.300 USD (tương đương 31.200.000 đồng), trong đó 300 USD (tương đương 7.200.000 đồng) là chi phí làm giấy CMND giả, 1000 USD (tương đương 24.000.000 đồng) là chi phí làm Hộ chiếu phổ thông tại cơ quan quản lý xuất nhập cảnh. Nguyễn Thị Thu H liên lạc với Đỗ Minh H qua ứng dụng Zalo và được H hướng dẫn tìm một giấy CMND của người thân hoặc bạn có độ tuổi tương đương và chưa làm hộ chiếu, chưa xuất cảnh ra nước ngoài.
Nguyễn Thị Thu H đã tự ý lấy giấy CMND số 194458956, do Công an tỉnh Quảng Bình cấp ngày 19/01/2008 của chị gái là Nguyễn Thị Hồng Nh, kèm theo ảnh chân dung của Nguyễn Thị Thu H rồi gửi cho Đỗ Minh H để làm giả giấy CMND. Quá trình thực hiện, Đỗ Minh H đã yêu cầu Nguyễn Thị Thu H chuyển chi phí làm giấy CMND giả với số tiền là 7.200.000 đồng. Sau khi nhận đủ tiền, H gửi cho H 02 (hai) giấy CMND gồm: 01 (một) giấy CMND thật của Nh mà trước đó H đã gửi cho H và 01 (một) giấy CMND giả mang thông tin nhân thân của Nh nhưng dán ảnh của H, phần mặt trước đã được ép plastic có đóng dấu nổi, phần mặt sau giấy CMND giả chưa có dấu lăn tay và chưa ép plastic để chờ lăn tay. Đỗ Minh H hướng dẫn Nguyễn Thị Thu H cần phải lăn dấu vân tay của chị gái Nguyễn Thị Hồng Nh vào giấy CMND giả, rồi gửi lại H. Nguyễn Thị Thu H đã mua một hộp mực màu đen, rồi nói với chị Nhung là in để xem hoa tay. Nh tưởng thật nên đã đồng ý lăn tay. Sau đó H gửi giấy CMND giả đã có dấu vân tay của Nhung cho Đỗ Minh H hoàn thiện giấy CMND giả.
Ngày 16/8/2020, Đỗ Minh H thông báo giấy CMND giả đã làm xong, yêu cầu H chuyển số tiền làm hộ chiếu là 24.000.000 đồng, Nguyễn Thị Thu H chuyển trước vào tài khoản ngân hàng cho H số tiền 10.000.000 đồng.
Ngày 24/8/2020, H chuyển cho Đinh Phúc Th ở thôn Q, xã Th, huyện M, tỉnh Quảng Bình số tiền 1.000.000 đồng, sau đó H gửi giấy CMND giả qua đường bưu điện và nhờ Th đưa H đi là̀m thủ tục xin cấp hộ chiếu tại Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Quảng Bì̀nh nhưng không nó́i cho Thịnh biế́t giấy CMND H gửi cho Th là giả.
Ngày 31/8/2020, Đinh Phúc Th mang theo giấy CMND do Đỗ Minh H gửi và dẫn Nguyễn Thị Thu H đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Quảng Bình. Tại đây H đã ghi vào “Tờ khai” các thông tin nhân thân của Nguyễn Thị Hồng Nh nhưng dán ảnh chân dung của Nguyễn Thị Thu H, sau đó H nộp “Tờ khai” tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ. Quá trình tiếp nhận, kiểm tra, đối chiếu các thông tin, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Quảng Bình phát hiện và tạm giữ các tài liệu liên quan, chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình xử lý.
Ngày 28/9/2020, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình trưng cầu giám định tài liệu “Giấy chứng minh nhân dân” do Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Quảng Bình chuyển đến. Tại bản Kết luận giám định số 1291/GĐ- PC09, ngày 05/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, kết luận: “Giấy chứng minh nhân dân”, số 194458956, họ tên Nguyễn Thị Hồng Nh, sinh ngày 18/8/1990, nơi ĐKHK thường trú: xã C – huyện B - Quảng Bình là giả. Hai dấu vân tay ở ô “ngón trỏ trái” và “ngón trỏ phải” mặt sau “Giấy chứng minh nhân dân” là dấu vân tay được tạo ra bằng phương pháp lăn tay trực tiếp.
Ngày 26/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình trưng cầu giám định đường vân trên mặt sau “Giấy chứng minh nhân dân” do Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Quảng Bình chuyển đến. Tại bản kết luận giám định số 1321/GĐ-PC09, ngày 10/11/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: Dấu vân tay cần giám định ký hiệu A1, A2 (trên Giấy CMND giả) so với dấu vân tay in ở ô “cái phải”, “cái trái” trên mẫu so sánh (chỉ bản vân tay 10 ngón của Nguyễn Thị Hồng Nh) ký hiệu M1 là của cùng một người.
Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Bình đã tiến hành tạm giữ các vật chứng, đồ vật, tài sản sau:
- 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân số 194458956, mang tên Nguyễn Thị Hồng Nh, sinh ngày 18/8/1990; Nguyên quán: xã C – huyện B - Quảng Bình; Nơi ĐKHK thường trú: xã C – huyện B - Quảng Bình. Do Công an tỉnh Quảng Bình cấp ngày 19/01/2008.
- 01 (một) Thẻ Ngân Hàng Agribank, số thẻ 9704 0509 5224 2449, mang tên Đỗ Minh H.
- 01 (một) Điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Vsmart, vỏ màu tím, ốp nhựa trong suốt, không kiểm tra chất lượng bên trong.
- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1.000.000 đồng (một triệu đồng), do Đinh Phúc Th tự nguyện giao nộp.
- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 17.200.000 đồng (mười bảy triệu hai trăm ngàn đồng), do Đỗ Minh H tự nguyện giao nộp.
Bản Cáo trạng số 06/CTr -VKS-P2 ngày 23/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình truy tố bị cáo Đỗ Minh H về tội “Làm giả và sử dụng tà̀i liệu giả của cơ quan , tổ chức” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015, truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu H về tội “Làm giả và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo Đỗ Minh H và Nguyễn Thị Thu H khai nhận vì hoàn cảnh khó khăn không có việc làm nên bị cáo H đã thuê bị cáo H làm giả giấy chứng minh nhân dân để làm hộ chiếu xuất cảnh ra nước ngoài. Các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình vi phạm pháp luật, quá trình điều tra, các bị cáo đã tích cực phối hợp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm, lần đầu phạm tội, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 341, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 65 BLHS xử phạt Đỗ Minh H 30 đến 36 tháng tù nhưng cho hưở̉ng án treo, thời gian thử thách 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; Áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm i, s, t khoản 1 Điều 51, Điều 36 BLHS xử Nguyễn Thị Thu H 12 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập đối với Nguyễn Thị Thu H vì bị cáo không có thu nhập ổn định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng cuả cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự . Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định cuả Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó́, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Việc xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:
Đối với bị cáo Đỗ Minh H: Sau khi được Nguyễn Thị Thu H thuê làm giấy chứng minh giả để làm hộ chiếu xuất cảnh, H đã dùng các tài liệu giả gồm giấy có in dấu vân tay của Nguyễn Thị Hồng Nh và thông tin nhân thân của Nh, ảnh của H để làm giấy chứng minh giả mang tên Nguyễn Thị Hồng Nh. Theo bị cáo thì bị cáo không trực tiếp làm được giấy chứng minh nhân dân giả mà thông qua người có tên Minh Đức ở Nga để liên lạc với một người tên Nhi ở H Nội trực tiếp làm. Hiện tại, cơ quan điều tra chưa xác định được danh tính của hai người trên. Sau đó, H nhờ Nguyễn Phúc Th đưa H đi làm hộ chiếu xuất cảnh. Khoản lợi H thu được từ việc làm chứng minh nhân dân giả và hộ chiếu là 17.200.000 đồng.Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ khẳng định hành vi của H đã phạm vào tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung quy định tại khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực phối hợp với cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm (được cơ quan điều tra xác nhận bằng văn bản). Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy chưa cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được giáo dục cải tạo tại địa phương là vừ̀a phải, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.
Đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu H: đã cung cấp cho Đỗ Minh H những tài liệu giả, giúp cho H làm giấy chứng minh nhân dân giả, sau đó sử dụng chứng minh nhân dân giả để làm thủ tục xin cấp hộ chiếu xuất cảnh. Hành vi của H phạm vào tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức và sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực phối hợp với cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm (được cơ quan điều tra xác nhận bằng văn bản). Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, t, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy chưa cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được giáo dục cải tạo tại địa phương là vừa phải, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Bị cáo H hiện tại đi làm thuê, thu nhập không ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.
Theo lời khai của Đỗ Minh H, người nhận làm giả giấy CMND có tên “Minh Đức” đang sinh sống ở Liên Bang Nga, nhưng các giao dịch chuyển tiền, chuyển giao các tài liệu, nhận giấy CMND giả được thực hiện thông qua đối tượng tên “Nguyễn Thị Nhi” tại thành phố H Nội theo chỉ dẫn của “Minh Đức”. Hai bên thỏa thuận sau khi hoàn thành việc làm giấy CMND giả và hộ chiếu cho Nguyễn Thị Thu H, thì “Minh Đức” trả cho Đỗ Minh H 200 USD. Tuy nhiên, quá trình điều tra không có căn cứ, lý lịch của hai đối tượng Đức và Nhi, không có tài liệu chứng cứ chứng minh tội phạm nên không co cơ sơ đê truy cưu trach nhiêm hinh sư..
Trong vụ án này, Nguyễn Thị Hồng Nh là chị gái của H đã có hành vi lăn ngón cái trên mặt sau giấy CMND giả, nhưng Nh không biết động cơ, mục đích của H nên không phạm tội.
Đinh Phúc Th là người giúp Đỗ Minh H mang theo giấy CMND có tên Nguyễn Thị Hồng Nh và đưa Nguyễn Thị Thu H đến Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Quảng Bình để làm thủ tục xin cấp hộ chiếu phổ thông. Tuy nhiên, Đinh Phúc Th không biết giấy CMND mà Đỗ Minh H gửi đến là giả và không biết người được Th giúp đưa đi làm hộ chiếu có tên thật là Nguyễn Thị Thu H. Vì vậy, Đinh Phúc Th không phạm tội.
3. Về vật chứng vụ án: thấy cần tiêu hủy môt giấy chứng minh nhân dân số giả số 194458956 mang tên Nguyễn Thị Hồng Nh, 01 (một) Thẻ Ngân hành Agribank, số thẻ 9704 0509 5224 2449, mang tên Đỗ Minh H theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Vật chứng thu giữ của Đỗ Minh H gồm 01 (một) Điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Vsmart, vỏ màu tím, ốp nhựa trong suốt, không kiểm tra chất lượng bên trong là tài sản bị cáo Đỗ Minh H sử dụng phạm tội nên cần tị̣ch thu , sung công qũy nhà nước theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Số tiền 17.200.000 do bị cáo Đỗ Minh H giao nộp và 1.000.000 đồng do Đinh Phúc Th giao nộp là số tiền thu lợi bất chính nên cần tịch thu, sung công quỹ nhà nước.
Về án phí: Các bị cáo Đỗ Minh H và Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Đỗ Minh H và Nguyễn Thị Thu H phạm tội “Làm giả và sử dụng tà̀i liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng điểm đ, khoản 2 Điêu 341; điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đỗ Minh H 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (15/4/2021). Giao bị cáo Đỗ Minh H cho UBND xã Đ, huyện Gi, tỉnh Hải Dương phối hợp cùng gia đình bị cáo giám sát , giáo dục bị cáo H trong thời gian thử thách cuả án treo .
Trong trường hợp bị cáo Đỗ Minh H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định cuả Luật thi Hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định cuả Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên , thì Toà án có thể quyết định buộc người chấp hành án phải chấp Hành hình phạt tù cuả bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Toà án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt cuả bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm s , t, i khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H 12 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Miễn khấu trừ thu nhập cho Nguyễn Thị Thu H do hoàn cảnh khó khăn, thu nhập không ổn định.
Giao Nguyễn Thị Thu H cho UBND xã Tr, huyện B, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu tiêu huỷ các vật chứng: môt giấy chứng minh nhân dân số 194458956, mang tên Nguyễn Thị Hồng Nh, 01 (một) Thẻ Ngân hàng Agribank, số thẻ 9704 0509 5224 2449, mang tên Đỗ Minh H.
Tịch thu, bán sung công quỹ nhà nước 01 (một) Điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Vsmart, vỏ màu tím, ốp nhựa trong suốt, không kiểm tra chất lượng bên trong.
Các vật chứng trên hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/02/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Bình và Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
Sung công quỹ nhà nước số tiền 18.200.000 đồng. Số tiền này đã được chuyển cho Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình theo Uỷ nhiệm chi lập ngày 25/02/2021.
Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngà̀y 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo Đỗ Minh H và Nguyễn Thị Thu H phải chị̣u 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm. Người vắng mặt có quyền kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do tòa tống đạt.
Bản án 19/2021/HS-ST ngày 15/04/2021 về tội làm giả và sử dụng tà̀i liệu giả của cơ quan, tổ chức
Số hiệu: | 19/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về