TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 19/2021/HSPT NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 437/2020/TLPT-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Đặng Công T, do có kháng cáo của bị cáo Đặng Công T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2020/HSST ngày 28/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ.
Bị cáo kháng cáo: Đặng Công T, sinh năm 1983 tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: Ấp A, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Công K (đã chết) và bà Trương Thị Tr, sinh năm 1946; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: không;
Tiền án: Tại Bản án số 43/2008/HSST ngày 27/8/2008, của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, xử phạt Đặng Công T 09 năm tù, về tội “Cướp tài sản” tổng hợp với hình phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” của bản án số 167/2008/HSPT ngày 25/02/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao. Buộc Đặng Công T phải chấp hành hình phạt của cả hai bản án là 12 năm tù. Đã chấp hành xong hình phạt tù tại Trại giam Thủ Đức, tỉnh Bình Thuận ngày 11/5/2018.
Về nhân thân:
- Tại Bản án số 27/2002/HSST ngày 24/10/2002, của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đồng Nai xử phạt Đặng Công T 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 16 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Tại Bản án số 35/2003/HSST ngày 26/9/2003, của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đồng Nai xử phạt Đặng Công T 10 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc Đặng Công T phải chấp hành hình phạt của bản án số 27/2002/HSST ngày 24/10/2002 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đồng Nai, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 20 tháng. Đã chấp hành xong hình phạt tại Trại cải tạo Z30 Cục V26 Bộ Công an.
Bị cáo tự thú ngày 02/8/2020 và đang bị tạm giữ tại Nhà Tạm giữ Công an huyện T1 theo Quyết định tạm giữ số 113/QĐ ngày 02/08/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T1, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
(Trong vụ án có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn C, anh Trịnh Hoàng Q, anh Đặng Văn H, anh Nguyễn Thành L, anh Nguyễn Tấn L1, anh Nguyễn Hoàng H1, chị Nguyễn Trần Bảo Th, chị Bùi Nguyễn Ngọc D, chị Trần Thị Mỹ U, chị Trịnh Nguyễn Gia H2, anh Phan Trường V nhưng không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào chiều ngày 20/12/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên Đặng Công T bắt xe khách đi đến khu vực Ngã tư Ga thuộc quận 12, thành phố Hồ Chí Minh gặp một nam thanh niên làm nghề xe ôm (không rõ tên tuổi, địa ch ) mua 1.600.000 đồng được 02 bịch ma túy thường gọi là “khay” và 03 viên ma túy thường gọi là “kẹo” mang về huyện Đ để sử dụng cho bản thân. Đến khoảng hơn 23 giờ ngày 24/12/2019, bị cáo Tuấn ghé nhà bạn là ông Phan Trường V chơi và có mang 01 viên ma túy thường gọi là “kẹo” ra sử dụng, số ma túy còn lại T cất trong túi quần phía sau bên trái mà T đang mặc để sử dụng sau.
Tại nhà của ông V, các đối tượng tên Nguyễn Trần Bảo Th; Bùi Nguyễn Ngọc D; Trần Thị Mỹ U; Nguyễn Thành L; Đặng Văn H; Nguyễn Tấn L1; Nguyễn Hoàng H1; Trịnh Hoàng Q và Nguyễn Văn C, cùng nhau sử dụng ma túy dạng “khay”, số ma túy các đối tượng sử dụng là do Nguyễn Tấn L1 đi lấy từ 01 nam thanh niên không rõ nhân thân lai lịch. Quá trình sử dụng ma túy còn dư lại 01 phần ma túy “khay” trong bịch nylon nên đối tượng Nguyễn Văn C đã lấy cất vào túi để sử dụng lần sau. Các đối tượng trên sử dụng ma túy do Nguyễn Tấn L1 lấy về và không sử dụng chung ma túy của Đặng Công T.
Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 25/12/2019, Công an huyện Đ phối hợp với Công an xã T1 tiến hành kiểm tra hành chính và bắt quả tang 02 đối tượng gồm: Đặng Công T và Nguyễn Văn C đang có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Vật chứng vụ án: 01 gói niêm phong mẫu vật ma túy sau giám định vụ số 1714/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai.
Căn cứ Bản kết luận số 1714/KLGĐ-PC09 ngày 02/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai xác định:
Mẫu niêm phong được thu giữ trên người của đối tượng Đặng Công T (ký hiệu M1) được gửi đến giám định gồm: 02 viên nén có trọng lượng: 0,7972 gam là ma túy loại: MDMA (Ký hiệu M11); Tinh thể màu trắng có trọng lượng:
0,7380 gam là ma túy loại Ketamine (kí hiệu M12).
Mẫu tinh thể màu trắng được thu giữ trên người của đối tượng Nguyễn Văn C (ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng: 0,8399 gam, loại: Ketamine.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 105/2020/HSST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ quyết định: Tuyên bố bị cáo Đặng Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Công T:
03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 02/8/2020.
Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
- Ngày 07/10/2020, bị cáo Đặng Công T có đơn kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: gia đình bị cáo thuộc diện đặc biệt khó khăn, bị cáo là lao động chính để nuôi mẹ già.
- Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tại phiên tòa: Hành vi của bị cáo Tuấn là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy, xâm phạm an ninh, trật tự xã hội. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đặng Công T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng căn cứ pháp luật, bị cáo có nhân thân xấu, có 02 tiền án chưa xóa án tích, trong thời gian tại ngoại bị cáo tiếp tục phạm tội và bị bắt giam tại Nhà Tạm giữ Công an huyện T1, Tòa án cấp cơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 03 (ba) năm tù là tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Đặng Công T làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Đặng Công T về việc đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã tuyên. Thể hiện: Vào khoảng 00 giờ 10 phút, ngày 25/12/2019, tại nhà ông Phan Trường V thuộc ấp Đ1, xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai, Đặng Công T có hành vi tàng trữ chất ma túy với trọng lượng là 0,7972 gam loại MDMA và 0,7380 gam loại Ketamine. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đặng Công T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
Xét thấy, bị cáo Tuấn thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên bị cáo Tuấn có 04 lần bị kết án về các hành vi phạm tội, trong đó Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2008/HSST ngày 27/8/2008, của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, xử phạt bị cáo về tội “Cướp tài sản” tổng hợp với hình phạt tại Bản án hình sự phúc thẩm số 167/2008/HSPT ngày 25/02/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” buộc bị cáo Tuấn phải chấp hành hình phạt của cả hai bản án là 12 năm tù vẫn chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không ăn năn hối cải mà tiếp tục tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Mức án 03 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp, không nặng như đơn kháng cáo đã nêu. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
[3] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Tuấn không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Công T, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 105/2020/HSST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ về hình phạt đối với bị cáo Đặng Công T.
- Xử phạt bị cáo Đặng Công T 03 (ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 02/8/2020.
2. Về án phí: Bị cáo Đặng Công T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 19/2021/HSPT ngày 15/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 19/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về