Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 650/2020/TLST-HNGĐ, ngày 16 tháng 10 năm 2020, về việc tranh chấp:“Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 410/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh Th, sinh năm 1997 Địa chỉ: ấp BT I, xã A, huyện M, tỉnh AG (Có đơn xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Trần Công M, sinh năm 1992 Địa chỉ: khóm ĐT, phường MT, thành phố LX, tỉnh AG (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện,bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh Th trình bày: Chị và anh Trần Công M tự quen biết nhau, hai bên tự nguyện đi đến hôn nhân, cả hai đều kết hôn lần thứ nhất, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh AG vào ngày 27/8/2015.

Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn như bất đồng ý kiến, không hòa thuận thường xuyên cự cãi, gia đình không hạnh phúc, anh M thường xuyên bạo hành chị Th. Vì vậy, chị Nguyễn Thị Thanh Th yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với anh Trần Công M.

- Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Trần Ngọc Nhã Th, sinh ngày 12/10/2015, hiện đang được chị Th chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nợ chung: không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết Đồng thời, ngày 27/11/2020, chị Th có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt vì hiện đang đang đi làm ở tỉnh LA, vì vậy theo giấy mời của tòa án chị khó xin nghỉ, cũng như việc đi lại khó khăn không thuận lợi, giữa anh chị không thể hòa giải hàn gắn.

- Phần trình bày của bị đơn anh Trần Công M: Vắng mặt suốt trong quá trình giải quyết đối với vụ án nên không có ý kiến trình bày Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh Th có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt; Bị đơn anh Trần Công M được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không tham dự phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thanh Th với anh Trần Công M; Về con chung cháu Trần Ngọc Nhã Th, sinh ngày 12/10/2015 hiện con chung đang được chị Th nuôi dưỡng ổn định nên sau khi ly hôn giao con chung cho chị Th tiếp tục nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Về chi phí cấp dưỡng nuôi con chung do đương sự không có yêu cầu nên không xem xét. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của vị Kiểm sát viên tham gia phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh Th có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa vào ngày 23/12/2020, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của chị Th là phù hợp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[1.2] Anh Trần Công M mặc dù được tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng anh M vẫn không tham dự phiên tòa nên vụ án được tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền: Chị Nguyễn Thị Thanh Th khởi kiện xin ly hôn với anh Trần Công M đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

[3.1] Theo đơn khởi kiện, bản tự khai chị Nguyễn Thị Thanh Th có ý kiến trình bày chị và anh Trần Công M tìm hiểu trên cơ sở tự nguyện và đi đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh AG vào ngày 27/8/2015. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn như bất đồng ý kiến, không hòa thuận thường xuyên cự cãi, gia đình không hạnh phúc, anh M thường xuyên bạo hành chị Th, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài nên chị Th và anh M đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay.

[3.2] Trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù anh Trần Công M được tống đạt các văn bản nhưng anh M không đến Tòa án cũng như không có ý kiến đối với việc chị Th xin ly hôn. Hội đồng xét xử nhận thấy, trong cuộc sống hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện chị Th không đồng ý tiếp tục chung sống cùng với anh M, còn anh M không có ý kiến trình bày, hôn nhân giữa chị Th với anh M không còn tồn tại trên thực tế từ năm 2017 cho đến nay, giữa vợ chồng không còn thực hiện các quyền và nghĩa vụ với nhau, cũng như không có giải pháp nhằm hàn gắn, duy trì cuộc hôn nhân. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thanh Th và anh Trần Công M.

[4] Về con chung: Nguyên đơn chị Th trình bày và cung cấp giấy khai sinh thể hiện giữa chị Th và anh Trần Công M chung sống với nhau có 01 (một) con chung tên Trần Ngọc Nhã Th, sinh ngày 12/10/2015 [4.1] Hội đồng xét xử nhận thấy cháu Th chưa thành niên, đang được chị Th chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp, cuộc sống của cháu đã ổn định. Vì vậy, nhằm ổn định cuộc sống của cháu Th không bị ảnh hưởng tâm sinh lý của việc cha, mẹ ly hôn và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung. Anh M không có ý kiến đối với yêu cầu nuôi dưỡng con chung của chị Th nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn của chị Th là chính đáng, có cơ sở.

[4.2] Đối với việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, anh M không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định, tuy nhiên chị Th xác định không yêu cầu anh M cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị Th trình bày không có, không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng anh M vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Th phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 143; khoản 1 Điều 146; khoản 4 Điều 147; Điều 186; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 232; điểm a khoản 1 Điều 238; khoản 1 Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thanh Th đối với anh Trần Công M

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thanh Th với anh Trần Công M.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Sau khi ly hôn giao con chung cháu Trần Ngọc Nhã Th, sinh ngày 12/10/2015 cho chị Nguyễn Thị Thanh Th trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Trần Công M không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Th không có yêu cầu

2.3. Chị Th phải tạo điều kiện cho anh M trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Việc cấp dưỡng và nuôi con chung không cố định.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm:

4.1. Chị Nguyễn Thị Thanh Th phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005688 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên ngày 14/10/2020. Chị Th đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4.2. Anh Trần Công M không phải nộp tiền án phí sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị Thanh Th và anh Trần Công M được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư ngụ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:19/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về