Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sơ Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số : 400/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 614/2020/QĐST-HNGĐ ngay 04/12/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị D, sinh năm: 1987; Địa chỉ: Tổ 24, ấp P, xã P, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Nguyễn Vũ L, sinh năm: 1988; Địa chỉ: Tổ 24, ấp P, xã P, tỉnh An Giang.

(Bà D vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông L vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 30/10/2020 cùng với các tài liệu, chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Trần Thị D trình bày: Hôn nhân giữa bà và ông Nguyễn Vũ L là do tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện A, tỉnh An Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 170 vào ngày 28/9/2012. Sau khi kết hôn, bà và ông L sống bên gia đình ông L, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng thời gian gần đây ông L không chăm sóc gia đình, dẫn đến bất đồng trong cuộc sống. Ông L có người phụ nữ khác nên thường xuyên vắng nhà. Từ đó, tìn cảm vợ chồng ngày càng nhạt nhẻo, niềm tin của bà và ông L không còn nữa nên mâu thuẫn vợ chồng này càng trầm trọng và sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mâu thuẫn giữa bà và ông L thật sự trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống nên bà yêu cầu xin ly hôn với ông L.

Về quan hệ con chung: Có 02 con chung tên:

1/ Nguyễn Thị Huỳnh P, sinh ngày 01/3/2011;

2/ Nguyễn Vũ K, sinh ngày 11/01/2018; hiện do bà D nuôi dạy. Khi ly hôn, bà D yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ để các bên tiếp cận, bà D không có ý kiến, thống nhất với những tài liệu, chứng cứ mà mình cung cấp.

Để đảm bảo quyền lợi của ông L tòa án tiến hành ghi lời khai của ông nhưng khi đến nhà thì ông L đi vắng không tiến hành ghi lời khai ông được.

Để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp, Tòa án đã thực hiện thủ tục thu thập chứng cứ là xác minh tình trạng mâu thuẫn vào ngày 03/12/2020, được ông Nguyễn Bá T cho biết: Ông là hàng xóm với ông L và bà D. Hôn nhân giữa bà D và ông L do tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn bà D và ông L chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng thời gian sau này ông L có qua lại với người phụ nữ khác, không quan tâm vợ con, ông L hiện không còn sống chung với bà D. Giữa bà D và ông L có 02 con chung 01 trai và 01 gái như bà D trình bày; tài sản chung và nợ chung ông không biết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 25/11/2020 được cháu Nguyễn Thị Huỳnh P cho biết cha mẹ cháu không còn chung sống với nhau đã lâu, sau khi cha mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng tiếp tục sống với mẹ.

Tại biên bản xác minh ngày 03/12/2020 được Công an xã P cho biết: ông L đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

Bà D vẫn bảo lưu ý kiến và có đơn xin xét xử vắng mặt. Riêng ông L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông L theo thủ tục chung.

Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi; thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ trong hồ sợ vụ án cho thấy hôn nhân của bà D và ông L có mâu thuẫn trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu nhưng hai bên không có thiện chí hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Huỳnh P, sinh ngày 01/3/2011, Nguyễn Vũ K, sinh ngày 11/01/2018, hai cháu hiện nay do bà D đang nuôi dạy. Khi ly hôn, đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con chung lại cho bà D được tiếp tục nuôi dạy.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do bà D không yêu cầu đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Do bà D không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Trần Thị D khởi kiện xin ly hôn với ông Nguyễn Vũ L. Ông L có nơi cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, ly hôn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

Về sự vắng mặt của đương sự: Bà D vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông L được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L, bà D theo Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà D và ông L có đăng ký kết hôn theo quy định nên làm phát sinh giá trị pháp lý theo Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu của bà D ly hôn với ông L cho thấy: Trong đời sống hôn nhân thường hay phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cải, cuộc sống không hòa hợp, ông L không quan tâm đến vợ con nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Hai bên không còn chung sống từ tháng 10/2020 cho đến nay. Đều này phù hợp với lời khai của ông Nguyễn Bá T.

Tòa án đã mở phiên hòa giải nhưng ông L vắng mặt không lý do, còn bà D vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn với ông L. Cho thấy mục đích hôn nhân giữa bà D và ông L không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng nên yêu cầu ly hôn của bà D là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Huỳnh P, sinh ngày 01/3/2011, Nguyễn Vũ K, sinh ngày 11/01/2018, hiện bà D đang nuôi dạy, bà D yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung. Xét thấy, để đảm bảo điều kiện cho con chung phát triển và ổn định về tâm sinh lý của các cháu sau này được tốt hơn, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà D giao ba con chung cho bà D được tiếp tục nuôi dạy.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do bà D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Bà D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Bà D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Các Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Các Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị D.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị D được ly hôn với ông Nguyễn Vũ L.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 170 vào ngày 28/9/2012 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện A, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về quan hệ con chung: Bà D được tiếp tục nuôi 02 con chung tên:

1/ Nguyễn Thị Huỳnh P, sinh ngày 01/3/2011;

2/ Nguyễn Vũ K, sinh ngày 11/01/2018;.

Công nhận sự tự nguyện của bà D về việc không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà D cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ theo quy định của pháp luật hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

Về án phí: Bà Trần Thị D phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà đã nộp theo biên lai thu số 0004895 ngày 02/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

Số hiệu:19/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về