TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 19/2020/HS-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21/12/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2020/TLST-HS, ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2020/QĐXXST-HS, ngày 10 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh ngày 29/7/1994 tại huyện Đ, tỉnh Phú Thọ.
Nơi cư trú: Thôn 2, xã V, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn B, sinh năm 1959 và bà: Lưu Thị T, sinh năm 1959; vợ, con: chưa có; anh chị em ruột: có 02 người, bị cáo là con thứ hai; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2014/HSST ngày 25/11/2014. Ngày 13/01/2015 bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 18 giờ 10 phút ngày 17/9/2020 tại quán Karaoke Ấ thuộc thôn G, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, Tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Sơn Dương phối hợp với Công an xã H, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn T, sinh ngày 29/7/1994, trú tại thôn 2, xã V, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nguyễn Văn T tự giác giao nộp 09 túi nilon màu trắng có viền màu xanh, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá (Methamphetamine) để ở trong túi quần bên trái phía trước đang mặc cho tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Sơn Dương.
Kết luận giám định số 720/GĐKTHS ngày 21/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 2,012g (hai phẩy không một hai gam).
Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Văn T khai nhận: T là người nghiện ma túy đá (Methamphetamine) từ tháng 4/2017, xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể T ngày 17/9/2020, kết quả (+) dương tính. Khoảng 09 giờ ngày 16/9/2020 T một mình đến bến xe khách M, thuộc phường M, quận N, thành phố Hà Nội, khi đến nơi T gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 2.500.000 đồng được 10 túi nilon màu trắng, bên trong đều chứa ma túy đá rồi cất vào túi quần bên trái phía trước đang mặc, sau đó đi xe khách về nhà. Khoảng 17 giờ cùng ngày T lấy 01 túi nilon chứa ma túy đá ra sử dụng hết bằng hình thức đốt hít vào cơ thể tại nhà của T. Số ma túy đá còn lại T vẫn để ở túi quần bên trái phía trước đang mặc.
Khoảng 15 giờ ngày 17/9/2020, T và Vũ Viết L, sinh năm 1990; Vũ Văn H, sinh năm 1988 (đều trú cùng thôn với T) cùng rủ nhau đến quán Karaoke Ấ thuộc thôn G, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang để hát Karaoke, khi đến nơi T, L, H vào phòng hát Vip 3 thuộc quán Karaoke Ấ để hát và gọi thêm 04 nhân viên của quán Karaoke Ấ là Hoàng Thị T, sinh ngày 26/6/2001, trú tại bản P, xã N, huyện T, tỉnh L; Bàn Thị N, sinh ngày 23/6/2001; Bàn Thị G, sinh ngày 22/02/1999; Bàn Thị L, sinh ngày 14/12/2001, cùng trú tại thôn 20, xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang vào phục vụ chọn bài hát và rót bia. Lúc này T gọi điện thoại rủ bạn là Hà Văn Q, sinh năm 1986, trú tại thôn T, xã H, huyện S đến hát cùng, Q rủ bạn là Đặng Văn Đ, sinh năm 1985, trú tại thôn Đ, xã H, huyện S rồi cùng nhau đến quán Karaoke Ấ. Sau đó T, L, H, Đ, Q, T, N, G, L cùng nhau hát Karaoke. Khi T đang hát karaoke thì bị phát hiện bắt giữ.
Trước đó ngày 15/9/2020, tại khu vực thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ, Hà Văn Q mua ma túy đá của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ 200.000 đồng được 01 gói nhỏ ma túy đá rồi Q mang số ma túy đá đó về nhà và sử dụng hết bằng hình thức đốt hít vào cơ thể (Xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể Q ngày 17/9/2020, kết quả (+) dương tính).
Tại Cáo trạng số 134/CT-VKSSD, ngày 27/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:
- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (17/9/2020).
Do bị cáo không có tài sản nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX xem xét, giải quyết việc xử lý vật chứng, khoản tiền án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về nội dung vụ án:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.
Ngoài lời khai nhận của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 18 giờ 10 phút ngày 17/9/2020, tại quán karaoke Ấ thuộc thôn G, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; Nguyễn Văn T, sinh ngày 29/7/1994, trú tại thôn 2, xã V, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ có hành vi tàng trữ trái phép 2,012g (hai phẩy không mười hai gam) Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.
[3] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và đường lối xử lý đối với bị cáo:
Bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Phú Thọ xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2014/HSST ngày 25/11/2014. Ngày 13/01/2015 bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt cần áp dụng cho bị cáo để có mức án phù hợp.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Quá trình điều tra xác định bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[4] Về vật chứng:
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ: 01 phong bì đã niêm phong bên trong có chứa Methamphetamine, bên ngoài phong bì có 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn T. Đây là vật chứng của vụ án thuộc danh mục Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Các vấn đề khác:
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T ngày 16/9/2020 và Hà Văn Q ngày 15/9/2020, Công an huyện Sơn Dương đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 333, 334 ngày 08/10/2020 bằng hình thức phạt tiền.
Đối với người đàn ông bán Methamphetamine cho Nguyễn Văn T ngày 16/9/2020 và người đàn ông bán Methamphetamine cho Hà Văn Q vào ngày 15/9/2020 do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra xử lý.
Đối với Vũ Viết L; Vũ Văn H; Hoàng Thị T; Bàn Thị N; Bàn Thị G; Bàn Thị L; Hà Văn Q; Đặng Văn Đ là những người cùng hát karaoke ngày 17/9/2020 tại quán Ấ, không biết Nguyễn Văn T tàng trữ trái phép chất ma túy nên không đề cập xử lý.
Do đó, HĐXX không xem xét.
[6] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[7] Về án phí và quyền kháng cáo bản án:
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự; Các Điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (17/9/2020).
2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trong có chứa Methamphetamine, bên ngoài phong bì có 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn T.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương)
3. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 19/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 19/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về