TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 19/2020/HS-PT NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 14 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm Th2 lý số: 13/2020/TLPT- HS ngày 14 tháng 01 năm 2020 đối với các bị cáo Nguyễn Thiên Th và Nguyễn Đức S do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2019/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện YL.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Thiên Th (tên gọi khác “T”), sinh ngày 09/01/1983; nơi cư trú: Thôn ĐL1, xã TN, huyện YL, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thiên S và bà Nguyễn Thị M; có vợ là chị Phạm Kim D và 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/4/2019 đến ngày 04/5/2019, hiện đang được tại ngoại (có mặt).
2. Họ và tên: Nguyễn Đức S (tên gọi khác không), sinh ngày 29/3/1975; nơi cư trú: Thôn ĐL1, xã TN, huyện YL, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức S1 và bà Nguyễn Thị Ch; có vợ là chị Nguyễn Thị B và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/4/2019 đến ngày 04/5/2019, hiện đang được tại ngoại (có mặt).
Về nhân thân: Tại Bản án số: 28/2005/HSST ngày 06/12/2005 bị TAND huyện YL xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại Bản án số: 36/2009/HSST ngày 28/9/2009 bị TAND huyện YL xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại Bản án số: 79/2009/HSST ngày 28/11/2012 bị TAND huyện YL xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (chấp hành án xong ngày 23/4/2015).
Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20h ngày 30/4/2019, Nguyễn Tất Th đang ở nhà tại thôn ĐL 1, xã TN, huyện YL thì có Nguyễn Duy Th1, Nguyễn Thế Th2 và Nguyễn Thiên V đến chơi. Trong khi ngồi uống nước, Th nói: “Đủ bốn người rồi anh em mình làm tý “Phỏm” cho vui?” thì mọi người đều đồng ý. Th trải 01 chiếc chiếu nhựa ra nền nhà và lấy 01 bộ bài Tulokho 52 quân để sẵn trên kệ Ti vi rồi cùng Th1, Th2, V đánh bạc. Các đối tượng thống nhất tỷ lệ Th - thua như sau: Người về nhì mất 10.000đ; về ba mất 20.000đ; về thứ tư mất 30.000đ; “cháy” (không có “Phỏm”) và “chốt” (cho ăn quân bài cuối cùng trước khi người ngồi “cửa trên” hạ “Phỏm”) đều bị mất 40.000đ, “Ù” (các quân bài trên tay tạo thành “Phỏm” không lẻ quân nào) được 50.000đ. Người về nhất hoặc “Ù” được thu tiền của những người còn lại, Th trộn bài và chia ván đầu tiên. Khi các đối tượng đang đánh “Phỏm” thì có Đường Vinh Th, Nguyễn Thiên Th, Nguyễn Đức S đến xem. Khoảng 21h cùng ngày Th điện thoại cho Nguyễn Ngọc Tr rủ đến nhà Tất Th chơi “Chắn” ăn tiền thì Tr đồng ý. Một lúc sau ông Đường Vinh Cường cũng đến nhà Tất Th thì Th ra vay của ông Cường 1.000.000đ. Ông Cường đưa cho Th 1.000.000đ rồi đi về luôn. Khoảng 15 phút sau, Tr đến thì Th nói: “Chơi Chắn đi?” nhưng không ai đồng ý. Lúc này có người (không xác định được ai) bảo: “Chơi Sâm đi?” thì Th, S, Vinh Th, Tr đều đồng ý cùng ngồi xuống chiếu nhựa trải sẵn trên dưới nền nhà của Tất Th. Cùng lúc này, Tr hỏi vay của S 2.000.000đ để đánh bạc thì S đồng ý. Th lấy bộ bài Tulokho 52 quân có sẵn trên kệ Ti vi trộn cho mọi người bốc cái, các đối tượng thống nhất cách thức chơi và tỷ lệ thắng - thua như sau: Người được cái chia bài và đánh quân đầu tiên. Người ngồi sau phải đánh quân bài, bộ đôi, bộ ba hoặc “dây” (các quân bài liên tiếp nhau từ quân “Át” đến “K” không cần phải cùng chất)… cao hơn người ngồi trên. Ai hết bài trên tay trước là về nhất, ai còn bài trên tay thì tính 10.000đ/01 lá; ai “treo” (không đánh được quân bài nào) bị mất 150.000đ, số tiền này đều phải trả cho người về nhất. Ai “Sâm” đánh 01 lượt hết bài luôn và không bị ai “chặn” được thu của mỗi người 200.000đ. Người nào đánh quân “02” bị người khác bắt “Tứ quý” (04 quân bài cùng số) thì phải trả cho người có “Tứ quý” 150.000đ. Kết thúc mỗi ván, người Th sẽ được chia bài và đánh quân đầu tiên trong ván tiếp theo. Khi bắt đầu chơi, Tr ngồi gần cửa ra vào và được cái chia bài, đánh quân đầu tiên, bên phải Tr lần lượt là Th, S và Vinh Th. Khoảng 21h30 phút cùng ngày, Nguyễn Đức S - Sinh năm 1975 ở cùng thôn đến xin mọi người cho chơi “Sâm” cùng thì Vinh Th, S, Tr và Th đều đồng ý. S (1975) ngồi giữa Tr và Vinh Th, các vị trí khác, cách thức chơi, tỷ lệ thắng - thua vẫn giữ nguyên. Khoảng 22h cùng ngày, Đường Vinh T, Nguyễn Xuân H đến nhà Th chơi và ngồi xem mọi người đánh “Sâm”. Một lúc sau, Th ra ngoài đi vệ sinh nên nhờ T cầm bài hộ, T chơi được 03 ván đều bị thua và dùng tiền của Th để thanh toán cho mọi người. Khi Th quay lại thì bị Công an huyện YL phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng, cụ thể:
- Tại chiếu “Phỏm” của Nguyễn Duy Th1, Nguyễn Thế Th2, Nguyễn Thiên V, Nguyễn Tất Th: 01 bộ bài Tulokho 52 quân, 01 chiếu nhựa và 990.000đ; trên người Th1 300.000đ; trên người V 01 điện thoại di động Viettel; trên người Th 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 400.000đ.
- Tại chiếu “Sâm” của Nguyễn Thiên Th, Nguyễn Đức S (1975), Nguyễn Ngọc Tr, Nguyễn Đức S (1973), Đường Vinh Th và Đường Vinh T: 01 bộ bài Tulokho 52 quân, 01 chiếu nhựa và 3.110.000đ. Trên người Tr 1.030.000đ, 01 điện thoại di động Sam sung màu hồng; trên người Vinh Th 21.880.000đ; 01 điện thoại di động Sam sung, 01 điện thoại di động Nokia; trên người Th 01 điện thoại di động Sam sung màu đen; trên người S (1973) 260.000đ, 01 điện thoại di động Iphone 6, 01 điện thoại di động Nokia; trên người T 01 điện thoại di động Iphone 7 màu vàng và 4.000.000đ.
Quá trình điều tra xác định: Khi đánh bạc Tất Th có khoảng 580.000đ, Th2 có khoảng 280.000đ, Th1 có khoảng 500.000đ, V có khoảng 330.000đ, Th có khoảng 1.220.000đ (trong đó 1.000.000đ vay của ông Đường Vinh C), S (1975) có khoảng 1.100.000đ, S (1973) có khoảng 2.490.000đ và đã cho Tr vay 2.000.000đ còn lại 490.000đ, Vinh Th có khoảng 1.040.000đ, Tr có khoảng 2.430.000đ (trong đó 2.000.000đ vừa vay của S (1973). Như vậy, có căn cứ khẳng định số tiền Nguyễn Thiên Th, Nguyễn Đức S (1975), Nguyễn Ngọc Tr, Nguyễn Đức S (1973), Đường Vinh Th và Đường Vinh T sử dụng vào mục đích đánh bạc là 6.280.000đ.
Đối với Nguyễn Duy Th1, Nguyễn Thế Th2, Nguyễn Thiên V có số tiền sử dụng đánh bạc dưới mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Bản thân Th1, Th2 và V đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, do đó Công an huyện YL không khởi tố và đã xử phạt hành chính đối với các đối tượng này.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2019/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện YL đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thiên Th, Nguyễn Đức S (1975) phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiên Th 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 30/4/2019 đến ngày 04/5/2019.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức S (1975) 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 30/4/2019 đến ngày 04/5/2019.
Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự phạt bị cáo Nguyễn Thiên Th, Nguyễn Đức S (1975) mỗi bị cáo 10.000.000đ sung công quỹ Nhà nước.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Nguyễn Tất Th về tội “Gá bạc”; các bị cáo Nguyễn Ngọc Tr, Đường Vinh Th, Nguyễn Đức S (1973), Đường Vinh T về tội “Đánh bạc”; quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/12/2019 bị cáo Nguyễn Đức S (1975) có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt tù và miễn hình phạt bổ sung. Ngày 06/12/2019 bị cáo Nguyễn Thiên Th có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tạ phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Đức S (1975) có ý kiến: Giữ nguyên nội dung kháng cáo; bị cáo Nguyễn Thiên Th bổ sung kháng cáo xin được hưởng án treo. Các bị cáo đều công nhận Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xét xử đúng người, đúng tội, không bị oan sai. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã tóm tắt nội dung vụ án; đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi, vai trò phạm tội của từng bị cáo; đồng thời xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo, sau khi đối chiếu với quy định của pháp luật, đã có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét:
Đối với bị cáo Nguyễn Thiên Th cho được hưởng án treo. Bởi lẽ, tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới là gia đình bị cáo có nhiều người thân có công với cách mạng.
Đối với bị cáo Nguyễn Đức S (1975), do bị cáo S nhân thân đã nhiều lần bị xử phạt tù nhưng không có ý thức tu dưỡng, cải tạo, nay lại tiếp tục phạm tội, vì vậy cần giữ nguyên hình phạt tù như cấp sơ thẩm đã tuyên xử để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Về nội dung kháng cáo xin miễn hình phạt bổ sung, do bị cáo S có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân bị cáo đã bị cắt thận, sức khỏe yếu nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung 10.000.000 đ (Mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, của các bị cáo; Hội đồng xét xử có những nhận xét sau đây:
[1] Về tố tụng: Cấp sơ thẩm trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án đã đầy đủ, có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Thiên Th và Nguyễn Đức S (1975) đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của bản án sơ thẩm đã quy kết nêu trên. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ căn cứ kết luận:
Khoảng 22h45 phút ngày 30/4/2019, Nguyễn Tất Th sử dụng nhà ở của mình ở thôn ĐL 1, xã TN, huyện YL cho các bị cáo Nguyễn Thiên Th, Đường Vinh Th, Nguyễn Đức S (1973), Nguyễn Đức S (1975), Nguyễn Ngọc Tr, Đường Vinh T cùng một số người khác, (tổng số 10 người) đánh bạc bằng hình thức chơi Sâm và đánh Phỏm được thua bằng tiền để thu tiền hồ thì bị Công an huyện YL bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan. Trong đó tiền thu giữ của 02 chiếu bạc là 7.970.000đ.
Với những hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thiên Th, Nguyễn Đức S (1975) về tội: “Đánh bạc" theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, mức án đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thiên Th: Bị cáo Th có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thật thà khai báo, có ý thức ăn năn hối cải; bị cáo là người đã từng tham gia quân đội, có nhiều thành tích và được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đủ điều kiện theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP về những trường hợp được hưởng án treo. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thiên Th.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức S (1975): Bị cáo S nhân thân đã 03 lần phạm tội, bị phạt tù; Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xét xử đúng tội, mức án đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo về hình phạt. Về nội dung kháng cáo xin miễn hình phạt bổ sung, xét thấy bị cáo S có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị cáo bị bệnh đã phải mổ cắt thận, sức khỏe yếu. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần chấp nhận nội dung kháng cáo này để miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Đức S (1975) là không đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Thiên Th là bỏ sót, làm bất lợi cho người phạm tội cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
[5] Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo Nguyễn Thiên Th và bị cáo Nguyễn Đức S (1975) không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án;
QUYẾT ĐỊNH
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thiên Th; chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức S (1975); sửa bản án hình sự sơ thẩm số 62/2019/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện YL, cụ thể như sau:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thiên Th, Nguyễn Đức S (1975) phạm tội: "Đánh bạc" .
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức S (1975) 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 30/4/2019 đến ngày 04/5/2019.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiên Th 09 (Chín) tháng tù, cho hưởng án treo.
Thời hạn thử thách 18 tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Thiên Th về UBND xã Trung Nguyên, huyện YL, tỉnh Vĩnh Phúc, là nơi bị cáo cư trú để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo có tên nêu trên, cố tình vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự, phạt bị cáo Nguyễn Thiên Th 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Nguyễn Đức S (1975).
2.Án phí: Các bị cáo Nguyễn Thiên Th và Nguyễn Đức S (1975) không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 19/2020/HS-PT ngày 14/05/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 19/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về