Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 21/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

 BẢN ÁN 19/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 21 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 79/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST- HNGĐ, ngày 28/8/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Mai Thị L; nơi cư trú: thôn Đ, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Đàm Văn B; nơi cư trú: thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 30/6/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Mai Thị L trình bày: Chị và anh Đàm Văn B có quá trình tìm hiểu và đi đến hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình vào ngày 24/12/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung đầm ấm hạnh phúc và có một con chung. Đến năm 2015 thì giữa vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp tính nhau, thường bất đồng về quan điểm sống, không tin tưởng và không tôn trọng nhau dẫn đến thường xuyên cãi vã nhau. Do vậy, vợ chồng đã sống ly thân từ đó cho đến nay, không còn quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho nhau. Hiện tại chị thấy mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng, sống ly thân đã lâu nên tình cảm không còn, không thể trở lại sống chung cùng nhau được nên kiên quyết xin ly hôn anh B để sớm ổn định cuộc sống bản thân.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Đàm Vĩnh H, sinh ngày 13/11/2009. Sau khi ly hôn chị L có nguyện vọng mong muốn được nuôi con và yêu cầu anh B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền là 2.000.000 đồng. Tại phiên tòa, chị L thay đổi yêu cầu về khoản tiền cấp dưỡng nuôi con. Chị yêu cầu anh B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng số tiền là 1.500.000 đồng, cho đến khi con thành niên.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết mà vợ chồng tự thỏa thuận phân chia, tự giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng như: thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo phiên họp và hòa giải cho anh Đàm Văn B nhưng anh B đều không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ tại nơi cư trú và gia đình của anh, kết quả cho thấy: sau khi nhận được các văn bản tố tụng từ Tòa án thì chính quyền địa phương đã thực hiện xử lý công văn đến, công văn đi theo quy định, đã cử cán bộ văn thư liên lạc giao đầy đủ văn bản tố tụng của Tòa án cho phía bị đơn anh Đàm Văn B và gia đình anh B cũng đã nhận được đầy đủ các giấy tờ, văn bản do Tòa án tống đạt. Chị L và gia đình anh B đã báo cho anh B biết việc Tòa án triệu tập anh đến Tòa để giải quyết việc chị L xin ly hôn anh nhưng anh B đã không đến Tòa án, không gửi bản khai, bản trình bày ý kiến cũng như cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án mà đã cố tình trốn tránh, giấu địa chỉ, không chấp hành theo thông báo, triệu tập của Tòa án, vắng mặt không có lý do. Qua thông tin từ gia đình thì anh B đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt anh. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành niêm yết văn bản tố tụng bảo đảm đúng quy định và đưa vụ án ra xét xử theo luật định. Tòa án đã mở phiên tòa xét xử vụ án nhưng anh B vắng mặt nên Hội đồng xét xử Quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay anh B vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân theo pháp luật tố tụng. Bị đơn anh Đàm Văn B vắng mặt không có lý do.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 và Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình; các khoản 5, 6 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Mai Thị L; về quan hệ hôn nhân: xử cho chị Mai Thị L được ly hôn anh Đàm Văn B; về quan hệ con chung: giao con chung Đàm Vĩnh H, sinh ngày 13/11/2009 cho chị Mai Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh Đàm Văn B có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng với chị L mỗi tháng số tiền là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). Thời gian đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung kể từ tháng 01/2021 trở đi, cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi); về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không xem xét; về án phí sơ thẩm: buộc chị Mai Thị L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn để nộp vào ngân sách nhà nước. Số tiền án phí chị L phải chịu trên được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị đã nộp trước đây tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo biên lai thu số 0007418, ngày 23/7/2020. Buộc anh Đàm Văn B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ để nộp vào ngân sách nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Mai Thị L khởi kiện yêu cầu xin ly hôn đối với anh Đàm Văn B và quyền yêu cầu được nuôi con chung sau khi ly hôn. Vì vậy, xác định đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án đã tống đạt, triệu tập, niêm yết văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, anh Đàm Văn B vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Đàm Văn B.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Mai Thị L và anh Đàm Văn B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình vào ngày 24/12/2008, vì vậy quan hệ hôn nhân là hoàn toàn hợp pháp. Sau khi kết hôn lẽ ra vợ chồng cần phải biết thương yêu, tôn trọng, chia sẽ để cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc nhưng giữa chị L và anh B đã không thực hiện được. Giữa hai người tính tình ngày càng không hợp, bất đồng quan điểm, không tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau nên thường xảy ra xung đột, cãi vã nhau, hai bên không tìm được hướng đi chung, vì vậy đã sống ly thân từ giữa năm 2015 cho đến nay, không còn quan tâm, lo lắng gì đến nhau, không còn giải pháp hàn gắn. Tình cảm vợ chồng phải xuất phát từ hai phía trong khi chị L xác định thật sự không còn tình cảm gì với anh B, không thể quay lại để tiếp tục sống chung cùng anh B được nữa mà kiên quyết xin được ly hôn. Còn đối với anh B, Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ, triệu tập nhiều lần, cũng như đã niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh B đã vắng mặt, không chấp hành theo thông báo, triệu tập của Tòa án. Điều này thể hiện việc anh B không hề quan tâm, lo lắng gì đến vợ con và gia đình, không thực hiện mà từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình đối với gia đình và pháp luật.

Xét nguyện vọng mong muốn xin được ly hôn của chị Mai Thị L cũng như xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh B đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Mai Thị L. Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, xét xử cho chị Mai Thị L được ly hôn anh Đàm Văn B.

[3] Về quan hệ con chung: Giữa chị Mai Thị L và anh Đàm Văn B có một con chung Đàm Vĩnh H, sinh ngày 13/11/2009. Sau khi ly hôn chị L có nguyện vọng mong muốn được nuôi con chung và yêu cầu anh B phải cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng số tiền là 2.000.000 đồng. Tại phiên tòa chị L thay đổi mức yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, yêu cầu anh B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền là 1.500.000 đồng.

Xét yêu cầu, nguyện vọng của chị L thấy rằng: Chị Mai Thị L hiện đang làm việc, sinh sống tại địa phương nên có khả năng, thời gian, điều kiện ổn định để chăm lo cho cuộc sống của con. Trong khi anh B lại bận công việc, chưa dành thời gian và điều kiện để chăm sóc con chung. Do vậy, khi ly hôn cần xem xét điều kiện, cơ sở mỗi bên, điều kiện học tập phát triển lành mạnh, bình thường của cháu Hưng mà tiếp tục giao cháu cho một trong hai bên trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Mặc dù không ở cùng với chị L, anh B nhưng việc chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung cũng là trách nhiệm của cha mẹ và người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định. Xét yêu cầu của chị L về mức cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng số tiền là 1.500.000 đồng, cũng như để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cháu Hưng nên yêu cầu và mức cấp dưỡng số tiền 1.500.000 đồng như vậy là phù hợp với nhu cầu, điều kiện và tình hình thực tế.

Xét điều kiện và khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng con của các bên, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83 và Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình: Giao con chung Đàm Vĩnh H, sinh ngày 13/11/2009 cho chị Mai Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, buộc anh Đàm Văn B phải có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng với chị L mỗi tháng số tiền là 1.500.000 đồng. Thời gian đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con kể từ tháng 01/2021 trở đi cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi).

[4] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị Mai Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung mà vợ chồng tự thỏa thuận phân chia, tự giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Xét quan điểm, đề xuất của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các khoản 5, 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc chị Mai Thị L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn; buộc anh Đàm Văn B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 và Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình; các khoản 5, 6 Điều 27 của Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Mai Thị L 1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Mai Thị L được ly hôn anh Đàm Văn B.

2. Về quan hệ con chung:

2.1. Giao con chung Đàm Vĩnh H, sinh ngày 13/11/2009 cho chị Mai Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

2.2. Anh Đàm Văn B có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng với chị L mỗi tháng số tiền là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). Thời gian đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung kể từ tháng 01/2021 trở đi, cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi).

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm:

4.1: Buộc chị Mai Thị L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn để nộp vào ngân sách nhà nước. Số tiền án phí chị L phải chịu trên được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị đã nộp trước đây tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo biên lai thu số 0007418, ngày 23/7/2020.

4.2: Buộc anh Đàm Văn B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ để nộp vào ngân sách nhà nước.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, báo cho bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 21/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:19/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về