Bản án 19/2019/DS-PT ngày 28/02/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 19/2019/DS-PT NGÀY 28/02/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2019/TLPT- DS ngày 08 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp: “Hợp đồng dân sự mua bán tài sản”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 51/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện B L, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 15/2019/QĐ-PT ngày 30/01/2019, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 23/2019/QĐ-PT ngày 22/02/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Y T. Trụ sở: số 744B, Quốc lộ 20, thị trấn L N, huyện Đ T, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện hợp pháp: Ông Trần V Y, sinh năm:1975; cư trú tại số 116, Quốc lộ 20, tổ dân phố 5, thị trấn L N, huyện Đ T, tỉnh Lâm Đồng; là người đại diện theo pháp luật (Giám đốc), vắng mặt.

Bị đơn: Bà Nông T K, sinh năm: 1961; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

Người làm chứng:

1. Ông Chu C C, sinh năm: 1974; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

2. Ông Đàm V H, sinh năm: 1973; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

3. Ông Lăng M T, sinh năm: 1987; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

4. Ông Hoàng V H1, sinh năm: 1972; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

5. Ông Lý V T1, sinh năm: 1972; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

6. Ông Đàm V Â, sinh năm: 1975; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

7. Bà Ngân T V, sinh năm: 1952; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

8. Bà Hoàng T Ch, sinh năm: 1941; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

9. Bà Hoàng T N, sinh năm: 1966; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

10. Ông Lăng V Ch1, sinh năm: 1972; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

11. Bà Mã T L, sinh năm: 1972; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

12. Bà Lý T N1, sinh năm: 1967; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

13. Bà Mông T D; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

14. Ông Thiếm V M, sinh năm: 1985; cư trú tại thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

Người kháng cáo: Bà Nông T K, sinh năm: 1961 – Bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/9/2018, lời trình bày tại các bản tự khai và trong quá trình tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm của ông Trần V Y, người đại diện theo pháp luật của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Y T thì:

Vào tháng 8/2017, Doanh nghiệp tư nhân Y T, nay là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Y T (gọi tắt là Công ty Y T), về thôn 04, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng tổ chức hội thảo phân bón hữu cơ vi sinh (phân heo đã qua xử lý) cho bà con nông dân. Do không đủ điều kiện bán riêng lẻ đến từng hộ nên thông qua Trưởng thôn là bà Nông T K để bán, những hộ dân muốn mua phân thì đăng ký với bà K, bà K đăng ký mua trực tiếp với Công ty, trên cơ sở số lượng phân bán được và thanh toán đủ tiền thì Công ty sẽ chiết khấu cho bà K 9,09% trên tổng số tiền phân bán được.

Vào ngày 24/8/2017 bà K ký Hợp đồng với Công ty mua 17,4 tấn phân, giá bán 3.700.000đ, thành tiền là 64.380.000đ; ngày 25/8/2017 bà K lấy thêm 17,4 tấn phân, giá bán 3.700.000đ/tấn, thành tiền là 64.380.000đ. Tổng cộng bà K mua 34.8 tấn phân, thành tiền 128.760.000đ.

Theo hợp đồng bà K phải trả tiền vào ngày 25/12/2017, nếu chậm trả thì chịu lãi suất 1.5%/tháng, ngày 10/10/2017, Công ty và bà K có lập biên bản đối chiếu công nợ, thể hiện bà K còn nợ 111.740.000đ, trừ chiếc khấu 10.440.000đ thì bà K còn phải thanh toán cho Công ty 101.300.000đ; ngày 10/02/2018 bà K đã trả được 67.280.000đ nên còn  nợ 44.460.000đ.

Nay Công ty Y T yêu cầu bà K phải trả nợ gốc là 44.460.000đ và lãi chậm trả là 5.668.650đ tính từ ngày 26/12/2017 đến 10/9/2018 (8,5 tháng). Tổng cộng số tiền gốc và lãi bà K phải trả là 50.128.650đ.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 16/10/2018, Biên bản hòa giải ngày 23/10/2018 thì bà K thừa nhận có mua phân bón vi sinh của Công ty Y T, tính đến hết ngày 10/02/2018, bà còn nợ Công ty 44.460.000đ. Do phân kém chất lượng dẫn đến cây trồng vàng lá, không năng suất, bà đã yêu cầu Công ty xuống kiểm tra nhưng Công ty không xuống thực hiện nên những hộ mua phân còn nợ không trả tiền cho bà nên bà không có tiền trả cho Công ty. Do đó bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, số tiền nợ gốc còn lại khi nào bà thu đủ từ các hộ dân thì bà sẽ trả cho Công ty Y T.

Toà án đã tiến hành hoà giải nhưng không thành.

Tại Bản án số 51/2018/DS-ST ngày 13/11/2018; Tòa án nhân dân huyện B L, tỉnh Lâm Đồng đã xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Y T về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán sản” với bị đơn bà Nông T K. Buộc bà Nông T K có trách nhiệm trả cho Công ty Y T số tiền 50.128.650đ.

2. Về án phí: Buộc bà Nông T K phải nộp 2.506.432đ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Công ty Y T 1.253.200đ tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2015/0005411 ngày 19/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B L, tỉnh Lâm Đồng.

Ngoài ra Bản án còn tuyên về quyền kháng cáo, lãi suất và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Ngày 18/12/2018 bị đơn bà Nông T K kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. 

Tại phiên tòa,

Bà Nông T K vẫn giữ nguyên kháng cáo, không đồng ý trả tiền cho Công ty Y T vì trong thực tế bà không phải là người trực tiếp mua phân mà chỉ là người giới thiệu để Công ty Y T bán phân bón đến từng hộ dân, bà chỉ là người đi thu tiền hộ cho Công ty Y T để hưởng hoa hồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Về nội dung: Đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xuất phát từ việc cho rằng bà Nông T K mua phân bón nhưng không thực hiện nghĩa vụ trả tiền, Công ty Y T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà K phải trả số tiền còn thiếu, bà K không đồng ý nên các bên phát sinh tranh chấp. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp Hợp đồng dân sự mua bán tài sản” là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Qua xem xét thì thấy rằng: theo các Hợp đồng mua bán phân bón số 6/10 ngày 24/8/2017 và số 27/9 ngày 25/8/2017 thì Công ty Y T thỏa thuận bán cho bà Nông T K 34,8 tấn phân vi sinh với giá 3.700.000đ/tấn, thành tiền là 128.760.000đ, tại Biên bản đối chiếu và xác nhận công nợ ngày 10/10/2017 giữa Công ty Y T với bà Nông T K thể hiện nội dung bà K còn nợ Công ty số tiền là 101.300.000đ, ngày 10/02/2018 bà K đã trả được cho Công ty số tiền 67.280.000đ nên số tiền bà K còn nợ lại là 44.460.000đ. Tuy nhiên, tại các bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án thì ông Trần V Y, người đại diện theo pháp luật của Công ty Y T, đều thừa nhận, Công ty Y T ký kết việc mua bán phân với bà K là do Công ty không đủ điều kiện bán riêng lẻ đến từng hộ nên đã thông qua trưởng thôn là bà Nông T K để bán phân bón đến các hộ dân trong thôn, những hộ dân muốn mua phân thì đăng ký với bà K, bà K đăng ký trực tiếp với Công ty, nếu thanh toán đủ tiền thì Công ty sẽ chiết khấu cho bà K 9,09% trên cơ sở số lượng phân bán được.

[3] Quá trình giải quyết tại giai đoạn phúc thẩm, bị đơn cung cấp tài liệu là "đơn xin mua phân bón trả chậm kiêm giấy cam kết trả nợ" (theo mẫu), thể hiện nội dung các hộ nông dân ở thôn 4, xã B L, huyện B L, tỉnh Lâm Đồng ghi các thông tin cá nhân và số lượng phân bón muốn mua vào đơn này, việc mua phân bón theo phương thức trả chậm thông qua Tổ dịch vụ hỗ trợ nông dân trực thuộc Hội nông dân xã, Chi hội nông dân thôn, Trưởng thôn đứng ra tín chấp cùng Doanh nghiệp tư nhân Y T (nay là Công ty Y T), tại "Phiếu đăng ký mua phân HCVS" do Doanh nghiệp tư nhân Y T phát hành cũng thể hiện tên người đại diện và danh sách liệt kê các hộ dân đăng ký mua phân, các hộ dân này cũng có bản tự khai thể hiện rõ họ là người trực tiếp mua phân của Công ty Y T; bà K, Trưởng thôn, chỉ là người đứng ra giới thiệu, chỉ nhà của các hộ dân mua phân để Công ty chở phân đến và thu tiền mua phân từ các hộ dân để giao lại cho Công ty Y T, do phân bón kém chất lượng nên sau khi trả một phần tiền cho Công ty Y T thông qua bà K thì các hộ dân không đồng ý tiếp tục trả tiền cho Công ty nữa.

[4] Như vậy có căn cứ xác định người trực tiếp mua phân bón của Công ty Y T là các hộ nông dân, bà Nông T K không phải là đại lý, mua phân bón của Công ty rồi về bán lại cho các hộ dân mà chỉ là người đứng ra giới thiệu và thu hộ tiền cho Công ty Y T để được hưởng hoa hồng theo thỏa thuận, các hộ dân mua phân bón phải có nghĩa vụ trả tiền cho Công ty Y T thông qua bà K.

Trong thực tế số tiền phân còn lại bà K chưa thu được từ các hộ nông dân đã mua nhưng Bản án sơ thẩm lại buộc bà K phải trả số tiền phân mà các hộ dân còn nợ cho nguyên đơn trong khi đó bà K không phải là người trực tiếp mua phân bón của Công ty Y T, không phải là người nợ tiền phân còn thiếu là không phù hợp với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bị đơn.

[5] Cấp sơ thẩm chưa đánh giá đúng tính chất của vụ án nên cần chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Y T về việc yêu cầu bà K phải trả số tiền phân còn thiếu.

[6] Về án phí: Công ty Y T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận là 2.506.432đ (50.128.650đ x 5%).

Do kháng cáo được chấp nhận nên bà Nông T K không phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm, trả lại cho bà K số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.

- Căn cứ các Điều 430, 440 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Khoản 3 Điều 26, Khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Chấp nhận kháng cáo của bà Nông T K, sửa Bản án sơ thẩm. Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Y T đối với bà Nông T K về việc “Tranh chấp Hợp đồng dân sự mua bán tài sản” đối với số tiền yêu cầu phải thanh toán là 50.128.650đ (năm mươi triệu một trăm hai mươi tám nghìn sáu trăm năm mươi đồng).

2. Về án phí:

- Án phí sơ thẩm: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Y T phải chịu 2.506.432đ án phí dân sự sơ thẩm; được trừ vào số tiền 1.253.200đ tạm ứng án phí Dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2015/0005411 ngày 19/9/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B L, tỉnh Lâm Đồng. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Y T còn phải nộp 1.253.232đ.

- Án phí phúc thẩm: Bà Nông T K không phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm; bà K được nhận lại số tiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0013204 ngày 24/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B L, tỉnh Lâm Đồng.

3. Về nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/DS-PT ngày 28/02/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:19/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về