Bản án 191/2020/HNGĐ-ST ngày 08/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN191/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 460/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2020 về việc “Tranh chấp Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 363/2020/QĐ-ST ngày 23/7/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 356/2020/QĐ-ST ngày 14/8/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T.A, sinh năm 1992; nơi cư trú: khu vực Đông Bình, phường T.L, Quận T.N, Thành phố C.T; Địa chỉ liên lạc: số 125/17/2, đường Tạ Quang Bửu, Phường 2, Quận 8, Thành phố H.C.M (Có mặt).

2. Bị đơn: Chị Trương Thị K.O, sinh năm 1995; nơi cư trú: ấp M.T, xã M.H.Đ, huyện C.M, tỉnh An Giang (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 04/6/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày: anh và chị Trương Thị K.O do mai mối, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân vào tháng 02/2013, có tổ chức lễ cưới, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND phường T.L, Quận T.N, Thành phố C.T vào ngày 18/6/2013; vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẩn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp, hay cãi vã, đã không còn sống chung với nhau từ năm 2016 đến nay. Nay thấy tình cảm không còn, không thể hàn gắn nên xin ly hôn với chị Trương Thị K.O.

+ Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Văn T.N, sinh ngày 03/02/2014. Sau khi ly hôn anh T.A yêu cầu tiếp tục được nuôi dưỡng chăm sóc con chung, không yêu cầu chị K.O phải cấp dưỡng nuôi con chung.

+ Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: không có nên không yều cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, ngày 05/6/2020 chị Trương Thị K.O có bản tự khai đồng ý toàn bộ với yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn T.A.

Tòa án đã triệu tập chị K.O đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ hai và triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, không rõ lý do.

Tại phiên tòa, anh Nguyễn Văn T.A vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, cũng như ý kiến đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ tranh chấp: nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn được xác định là quan hệ tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn Trương Thị K.O, sinh năm 1995 có hộ khẩu thường trú tại ấp Mỹ Thành, xã M.H.Đ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới đã tống đạt hợp lệ các thông bá thụ lý, Thông báo về phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho chị Trương Thị K.O nhưng chị Oanh đều vắng mặt không có lý do. Chị K.O có bản tự khai, nhưng không đến Tòa án tham gia phiên hòa giải thuộc trường hợp không thể tiến hành hòa giải theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 14/8/2020, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới mở phiên tòa để giải quyết tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” giữa anh T.A và chị K.O nhưng chị Oanh vắng mặt không rõ lý do nên phải hoãn phiên tòa.

Tại phiên tòa lần thứ hai ngày 08/9/2020 Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa nhưng chị K.O vẫn tiếp tục vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn Trương Thị K.O theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn T.A và chị Trương Thị K.O kết hôn trên cơ sở tình yêu tự nguyện, tự do tìm hiểu, không bị ai lừa dối hay ép buộc và có đăng ký kết hôn vào ngày 18/6/2013 tại UBND phường T.L, Quận T.N, Thành phố C.T, hoàn toàn phù hợp với Giấy chứng nhận kết hôn của anh T.A và chị K.O do UBND phường T.L, Quận T.N, Thành phố C.T cấp mà anh T.A giao nộp có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp.

Đánh giá về tình trạng hôn nhân: sau khi kết hôn vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra cự cãi, mối quan hệ giữa vợ chồng trở nên căng thẳng và kể từ thời điểm đó chị K.O đã bỏ về An Giang sinh sống và hiện đi làm thuê ở xa, kể từ thời điểm đó vợ chồng không còn liên lạc với nhau; nguyên nhân mâu thuẩn do vợ chồng không tin tưởng nhau trong tình cảm, thiếu trách nhiệm trong cuộc sống gia đình.

Tại phiên tòa hôm nay, anh T.A vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với chị K.O.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập đến các phiên hòa giải nhưng chị K.O đều vắng mặt, thể hiện việc chị Oanh không có mong muốn hàn gắn tình cảm, không muốn đoàn tụ với anh T.A. Hiện nay, anh T.A và chị K.O vẫn sống ly thân và không quan tâm đến nhau, cuộc sống riêng lẻ của mỗi người, không còn mục tiêu để xây dựng một gia đình. Điều đó chứng tỏ vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014 xử cho anh Nguyễn Văn T.A được ly hôn chị Trương Thị K.O là phù hợp.

[3] Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Văn Tuấn Nghiêm, sinh ngày 03/02/2014. Từ khi sống ly thân đến nay cháu Tuấn Nghiêm do anh T.A nuôi dưỡng, chăm sóc. Sau khi ly hôn, anh T.A yêu cầu tiếp tục được nuôi dưỡng chăm sóc con chung, không yêu cầu chị K.O phải cấp dưỡng nuôi con chung và tại bản tự khai chị Oanh cũng đồng ý nên cần thiết giao cháu Tuấn Nghiêm cho anh T.A tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành là phù hợp được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Tuấn Nghiêm cho anh T.A trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là có cơ sở. Anh T.A không yêu cầu chị Trương Thị K.O phải cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản và nợ chung: do đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: anh Nguyễn Văn T.A phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 147, 273; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn T.A. Anh Nguyễn Văn T.A được ly hôn với chị Trương Thị K.O.

Giấy chứng nhận kết hôn số 174, Quyển số 02/2013 do Ủy ban nhân dân phường T.L, Quận T.N, Thành phố C.T cấp ngày 18/6/2013 cho anh Nguyễn Văn T.A và chị Trương Thị K.O không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: giao con chung tên Nguyễn Văn T.N, sinh ngày 03/02/2014 cho anh Nguyễn Văn T.A tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục đến tuổi trưởng thành.

Không bên nào được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

 4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn T.A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Anh Nguyễn Văn T.A đã nộp đủ theo biên lai thu tiền số 0008478 ngày 04/6/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

5. Quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn T.A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Trương Thị K.O có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 191/2020/HNGĐ-ST ngày 08/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:191/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về