TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 190/2021/HS-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 197/HSST ngày 29 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 208/2021/QĐXXST-HS ngày 28/4/2021 đối với bị cáo:
Đỗ Thị N - sinh năm 1996 tại Thanh Hóa. ĐKHK: Thôn N, xã T, huyện M, Hà Nội; Nơi ở: Tổ dân phố D, phường X, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn L; và bà: Hoàng Thị T; chồng: Nguyễn Văn L (đã ly hôn) và 01 con; Tiền án; Tiền sự: không; bị cáo tại ngoại, “có mặt”.
Người làm chứng:
1. Nguyễn Châu G - SN 1992 “vắng mặt” Trú tại: T, phường N, TP T.
2. Lê Chí T - SN 1997 “vắng mặt” Trú tại: S, phường Đ, thành phố T
3. Lê Thị Hoài T2 - SN 2000 “vắng mặt” Trú tại: H, phường Đ, thành phố T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 21h50 ngày 06/01/2021, tổ công tác Đội cảnh sát hình sự Công an thành phố Thanh Hóa phối hợp với Công an phường Đ, thành phố T kiểm tra hành chính khách sạn N, ở N, phường Đ, thành phố T phát hiện tại phòng 506, tầng 5 khách sạn có 01 đôi nam nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm là Lê Chí T, sinh năm 1997 ở S, phường Đ, thành phố T và Lê Thị Hoài T2, sinh năm 2000, ở H, phường Đ, thành phố T. Tại phòng 501, tầng 5 của khách sạn có 01 đối tượng nam giới là Nguyễn Châu G, sinh năm 1992 ở T, phường N, TP T đang ngồi chờ gái mại dâm đến để mua dâm. Tổ công tác lập biên bản và đưa các đối tượng liên quan về trụ sở làm việc.
Tại cơ quan điều tra, các đối tượng khai nhận: Việc các đối tượng đến khách sạn N để thực hiện hành vi mua bán dâm là do Đỗ Thị N môi giới. Cơ quan điều tra triệu tập N lên làm việc, N thừa nhận hành vi môi giới mại dâm như sau: Khoảng 19h ngày 06/01/2021, Nguyễn Châu G và Lê Chí T rủ nhau đến khách sạn N thuê phòng 501 và 506 để mua dâm. Khoảng 20h cùng ngày, G gọi điện cho Đỗ Thị N bảo N cho 02 người (02 gái mại dâm) lên phòng 501 và 506 khách sạn N để bán dâm cho G và T. N đồng ý và thống nhất với G giá mua dâm là 1.000.000đ/01 lần/01 người mua dâm. Đến khoảng 21h30 ngày 06/01/2021, N rủ Lê Thị Hoài T2 đến khách sạn N để bán dâm cho G và T. Khi đến khách sạn N, N trực tiếp nhận tiền mua bán dâm 2.000.000đ tại phòng 501 từ G và thống nhất với T2 mỗi lần bán dâm (tàu nhanh) thì N sẽ thu của khách 1.000.000đ, sau khi T2 bán dâm xong đưa cho T2 600.000đ, số tiền còn lại N hưởng. N phân công T2 vào phòng 506 bán dâm cho T, còn N vào phòng 501 bán dâm cho G. Do N quên bao cao su nên N nói với G đợi một lát để N đi ra ngoài lấy. Đến khoảng 21h50 cùng ngày, nhận được tin báo của chị Trịnh Thị N2 là nhân viên lễ tân khách sạn N, tổ công tác đội cảnh sát hình sự Công an thành phố Thanh Hóa phối hợp với Công an phường Đ đến khách sạn kiểm tra và phát hiện tại phòng 506 Lê Chí T và Lê Thị Hoài T2 đang chuẩn bị quan hệ tình dục với nhau, tại phòng 501 thì Nguyễn Châu G đang nằm chờ Đỗ Thị N đến để thực hiện việc mua bán dâm. Sau khi lấy được bao cao su, N quay lại khách sạn N thì thấy lực lượng công an nên N bỏ đi. Đến ngày 09/01/2021 khi Cơ quan điều tra triệu tập N lên làm việc thì N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Quá trình kiểm tra thì cơ quan Công an đã thu giữ được 01 bao cao su (chưa sử dụng).
Đối với chiếc điện thoại di động Iphone X, kèm theo số sim điện thoại 0942242332 mà N sử dụng việc môi giới mại dâm. Sau khi bị phát hiện, N đã vứt chiếc điện thoại đường không nhớ vị trí nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.
Đối với số tiền 2.000.000đ là tiền bán dâm N thu của G, N đã sử dụng chi tiêu cá nhân hết.
Đối với Lê Chí T, Nguyễn Châu G và Lê Thị Hoài T2 là những người đã thực hiện hành vi mua, bán dâm cơ quan Công an thành phố Thanh Hóa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ.
Đối với ông Phạm Thành Dũng, chủ khách sạn N đã thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về lĩnh vực kinh doanh dịch vụ lưu trú, ngoài ra chủ dộng tố giác tội phạm nên Cơ quan điều tra đã nhắc nhở, rút kinh nghiệm.
Tại bản cáo trạng số 91/CT-VKS ngày 25 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá truy tố Đỗ Thị N về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 Điều 328 BLHS Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng: khoản 1 Điều 328; điểm i, n, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Thị N từ 09 đến 12 tháng tù. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý về vật chứng và án phí.
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiền hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở chứng minh: Vào hồi 21h50 ngày 06/01/2021, tại phòng 506, tầng 5 khách sạn N ở N, phường Đ, thành phố T. Đỗ Thị N đã có hành vi môi giới để Lê Thị Hoài T2 bán dâm cho Lê Chí T thì bị cơ quan Công an phát hiện, bắt giữ.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội của Đỗ Thị N có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Môi giới mại dâm”. Tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, đúng pháp luật.
[3] Tính chất vụ án: Trong khi Đảng và Nhà nước đang kiên quyết đấu tranh để loại trừ tệ nạn ma túy, mại dâm ra khỏi đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ hành vi của minh là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự công cộng, xâm phạm đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục, đời sống văn hóa, trật tự trị an chung nên có được xử lý nghiêm minh.
[4] Nhân thân, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Mặc dù, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng với tính chất của vụ án, mức độ hành vi phạm tội thì việc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người phạm tội là phụ nữ có thai nên khi áp dụng hình phạt cần căn cứ điểm i, n, s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về vật chứng: Đối với 01 bao cao su nhãn hiệu VIP chưa qua sử dụng không có giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với số tiền 2.000.000đ mua bán dâm bị cáo nhận từ G là tiền do phạm tội mà có nên truy thu từ bị cáo N khoản tiền này để nộp vào ngân sách nhà nước. Căn cứ khoản 1, điểm a,b,c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: khoản 1 Điều 328, điểm i, n, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS. Khoản 1, điểm a,b,c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Thị N phạm tội “Môi giới mại dâm”
Xử phạt: Đỗ Thị N 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án.
Về vật chứng: Truy thu từ bị cáo Đỗ Thị N số tiền 2.000.000đ để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Tịch thu, tiêu hủy 01 bao cao su nhãn hiệu VIP chưa qua sử dụng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 139/THA ngày 26/4/2021).
Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.
Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án đối với khoản tiền án phí, tiền truy thu theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 190/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội môi giới mại dâm
Số hiệu: | 190/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về