Bản án 190/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 190/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 429/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 373/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 359/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Hoàng Q, sinh năm 1999; địa chỉ: ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

Bị đơn: Ông Nguyễn Sơn H, sinh năm 1991; địa chỉ: ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Hoàng Q trình bày, sau thời gian quen biết, tìm hiểu, bà Q và ông Nguyễn Sơn H tự nguyện kết hôn vào năm 2018, có đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 25/5/2018. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 26/7/2019; không có tài sản chung và nợ chung.

Cách nay khoảng 08 tháng, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã do bất đồng quan điểm trong cuộc sống và không còn sống chung từ tháng 10/2019 cho đến nay.

Do tình cảm vợ chồng không còn nên bà Q yêu cầu được ly hôn với ông H; yêu cầu nuôi dạy cháu Nguyễn Ngọc Hà M, yêu cầu ông Nguyễn Sơn H cấp dưỡng nuôi dạy con theo quy định pháp luật; không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện gồm: tờ tự khai ngày 26/5/2020 của bà Nguyễn Hoàng Q; bản sao Trích lục khai sinh số 183/TLKS-BS ngày 30/7/2019 do Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp cấp đối với Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 26/7/2019 (số đăng ký 183 ngày 30/7/2019) bản sao giấy chứng nhận kết hôn số 40/2018 ngày 25/5/2018 do Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp cấp.

- Bị đơn ông Nguyễn Sơn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa,

- Nguyên đơn bà Nguyễn Hoàng Q trình bày ý kiến như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Bà Q yêu cầu được ly hôn với ông H; yêu cầu được nuôi dưỡng con chung; không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản chung, nợ chung. Về yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi dạy con chung theo quy định pháp luật, bà Q rút lại, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án, bà Q không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, bà Q và ông H chung sống, có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa bà Q, ông H hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Từ khi bà Q khởi kiện yêu cầu ly hôn, ông H không có ý kiến phản hồi. Bà Q, ông H không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn hạnh phúc. Đồng thời, bà Q xác định không còn tình cảm với ông H. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Q đối với ông H theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về con chung, đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà Q, giao cháu M cho bà Q tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con, tại phiên tòa, bà Q rút lại yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung, đề nghị không đề cập giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Bà Nguyễn Hoàng Q khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Sơn H. Đồng thời, ông H cư trú trên địa bàn huyện C. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Sơn H đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Bà Q và ông H tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa bà Q, ông H là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Bà Q xác định, vợ chồng mâu thuẫn từ tháng 10/2019 cho đến nay do ông H thường xuyên đi nhậu về khuya, cự cãi với cha mẹ vợ; tự ý bỏ về nhà cha mẹ một sinh sống từ khoảng tháng 10/2019 cho đến nay, không quan tâm đến vợ con.

Xét thấy, xuất phát từ mâu thuẫn trong thời gian chung sống, bà Q và ông H không còn sống chung từ tháng 10/2019. Vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Bên cạnh đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho ông H nhưng ông H không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của bà Q. Cho nên, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa bà Q, ông H là trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Q đối với ông H theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Bà Q xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 26/7/2019. Bà Q yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu M.

Xét thấy, cháu M đang được bà Q chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển ổn định và hiện cháu dưới 36 tháng tuổi. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu M, giúp cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu M cho bà Q tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bà Q yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi dạy con chung theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bà Q tự nguyện rút lại yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện bị rút theo Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Q xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Q phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông H không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các Điều 144, 147, 244, 273 Bộ luật T tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 2 7 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của y ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, min, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Hoàng Q về việc yêu cầu ông Nguyễn Sơn H cấp dưỡng nuôi dưỡng con chung.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Hoàng Q.

2.1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Hoàng Q được ly hôn với ông Nguyễn Sơn H.

Gầy chứng nhận kết hôn số 40/2018, ngày 25/5/2018 do Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp cấp cho bà Nguyễn Hoàng Q và ông Nguyễn Sơn H không còn giá trị pháp lý.

2.2. Về con chung: Bà Nguyễn Hoàng Q được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 26/7/2019. Ông Nguyễn Sơn H không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Bà Nguyễn Hoàng Q cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Sơn H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Hoàng Q phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2017/0008429 do Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang cấp ngày 27 tháng 5 năm 2020; bà Nguyễn Hoàng Q đã nộp đủ án phí.

Ông Nguyễn Sơn H không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Nguyễn Hoàng Q có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Nguyễn Sơn H được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 190/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:190/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về