Bản án 190/2018/HS-PT ngày 12/10/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 190/2018/HS-PT NGÀY 12/10/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 146/2018/TLPT-HS ngày 17 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo Dương Thị Thanh T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 113/2018/HS-ST ngày 16 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Dương Thị Thanh T, sinh năm: 1978 tại V. Nơi cư trú: 718/2B L, khu phố 6, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ, tôn giáo: không, quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn T và bà Trần Thị T; Chồng là Nguyễn Tấn Đ và 01 con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo được tại ngoại. Có mặt.

- Người giám định:

Ông Ngô Phước T, sinh năm 1976 (có mặt)

Nơi công tác: Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 18/01/2018 Dương Thị Thanh T cùng Dương Văn V, Dương Thị Hoa T và Dương Tấn T đi đến nhà bà Trần Thị T số 702/2 đường L, phường A, TP. R, tỉnh Kiên Giang để tìm Đặng Nam Nhi (con bà Trần Thị T) để nói chuyện. Lúc này Dương Thị Thanh T không gặp Đặng Nam N mà gặp Trần Thị T1 thì hai bên xảy ra cự cãi, tại đây Dương Thị Thanh T liền xông vào dùng tay đánh nhau với Trần Thị T1 và dùng tay của mình cào cấu nhiều cái vào mặt Trần Thị T1 gây thương tích thì được Dương Văn V, Dương Thị Hoa T, Dương Tấn T can ngăn.

Ngày 05/3/2018 Trần Thị T1 làm đơn yêu cầu khởi tố, ngày 23/4/2018 Dương Thị Thanh T bị Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Rạch Giá khởi tố và ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 157/KL-PY, ngày 22/3/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang kết luận thương tích của Trần Thị T1 như sau:

1/. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo gây ảnh hưởng thẩm mỹ vùng gò má trái.

- Sẹo phần mềm vùng gò má phải và cằm trái

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 13% (Mười ba phần trăm).

3. Vật gây thương tích: Vật tày có góc cạnh

4. Về thẩm mỹ và chức năng bộ phận cơ thể:

- Thương tích má trái gây ảnh hưởng thẩm mỹ mức độ ít.

- Thương tích không gây hạn chế chức năng bộ phận cơ thể

*Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2018/HS-ST ngày 08 tháng 02 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang đã quyết định: Tuyên bố: Bị cáo Dương Thị Thanh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Dương Thị Thanh T 06 (sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 27/7/2018, bị cáo Dương Thị Thanh T có đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo

Tại phiên tòa, bị cáo Dương Thị Thanh T thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng tội và giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

Giám định viên Ngô Phước T giải thích về kết luận giám định: Dựa trên đặc điểm, hình thái của vết sẹo xác định vật gây thương tích là vật tày, móng tay cũng là vậy tày có cạnh, và móng tay cào cấu hoàn toàn có thể gây ra vết thương phù hợp với kết luận giám định. Bà Trần Thị T1 với 3 vết thương trên mặt trong đó vết thương bên má trái gây ảnh hưởng thẩm mỹ, căn cứ mục 1 chương 9 Thông tư 20 quy định tỉ lệ thương tích, Hội đồng giám định xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Cấp sơ thẩm truy tố, xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại Điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo mức án 06 tháng tù là tương xứng. Tuy nhiên sau khi xử sơ thẩm bị cáo đã khắc phục toàn bộ số tiền 11 triệu đồng cho bị hại, đây là tình tiết mới được quy định tại Điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS. Đề nghị HĐXX áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo từ 6 tháng tù xuống còn 3 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của bị cáo Dương Thị Thanh T đã đúng qui định về người có quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo theo Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về Quyết định của Bản án sơ thẩm:

a). Vào khoảng 17 giờ, ngày 18/01/2018 Dương Thị Thanh T sau khi xảy ra mâu thuẫn cự cãi với Trần Thị T1 tại số 702/2 L, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. Dương Thị Thanh T liền xông vào dùng tay đánh nhau với Trần Thị T1 và dùng tay cào cấu vào vùng mặt của Trần Thị T1 gây thương tích qua giám định pháp y thì tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%. Do đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” và căn cứ vào kết luận giám định Tòa cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xét xử bị cáo là có căn cứ và đúng qui định của pháp luật.

b). Về tình tiết giảm nhẹ, án sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ là nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng để áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo:

Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo, thấy rằng bị cáo 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án đầu khung hình phạt 06 tháng tù là thỏa đáng, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại về sức khỏe theo yêu cầu của bị hại là 11 triệu đồng, đây là tình tiết giảm nhẹ mới “tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả” được quy định tại Điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, giảm một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

[4] Về quan điểm của Kiểm sát viên: Đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí:

Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm.

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 134, điểm i, b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

Xử phạt: Bị cáo Dương Thị Thanh T 03 (ba) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 113/2018/HS-ST ngày 16 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 190/2018/HS-PT ngày 12/10/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:190/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về