Bản án 189/2021/HS-PT ngày 20/04/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 189/2021/HS-PT NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 245/2020/TLPT-HS ngày 10/7/2020 đối với bị cáo Đoàn Văn N và đồng phạm về tội “Giết người”. Do có kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 43/2020/HS-ST ngày 02/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. ĐOÀN VĂN N (Tên gọi khác: N), sinh ngày 10/9/1999, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; con ông Đoàn Văn S và bà Hà Thị Bích V; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/12/2017; ngày 27/02/2019, chấp hành Bản án hình sự phúc thẩm số 396/2018/HSPT ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tội “Cố ý gây thương tích” tại Trại giam D - Bộ Công an; ngày 03/12/2019, chuyển về tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

2. PHAN NGUYÊN V, sinh năm 1996, tại tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phan Nguyễn B và bà Nguyễn Thị M; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 14/02/2015, bị Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản; Bản án hình sự phúc thẩm số 155/2015/HSPT ngày 14/5/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk y án sơ thẩm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/12/2015 - Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến ngày 21/8/2018, được thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp cho gia đình bảo lĩnh; ngày 27/02/2019, chấp hành Bản án hình sự phúc thẩm số 396/2018/HSPT ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tội “Cố ý gây thương tích” tại Trại giam D - Bộ Công an; ngày 03/12/2019, chuyển về tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

3. TRẦN VĂN T, sinh năm: 1998, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Ngọc G và bà Nguyễn Thị T; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/4/2018 đến ngày 13/6/2018 được thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp cho gia đình bảo lĩnh; Ngày 05/01/2019, chấp hành bản án hình sự sơ thẩm số 80/2018/HSST ngày 03/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện E về tội “Cố ý gây thương tích”; ngày 02/12/2019, chuyển về tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

4. ĐÀO VĂN H (Tên gọi khác: H Nhóc), sinh năm 1994, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông Đào Quang T và bà Đinh Thị T; có vợ là Lê Hà Tường V có 01 con sinh năm 2018; tiền án: 01 tiền án ; Tiền sự: Không, Tại Bản án số 14/2012/HSST ngày 15/02/2012, bị Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”;

Tại bản án số 49/2018/HSST 05/6/2018, bị Tòa án nhân dân huyện E xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/02/2020 tại Trại giam Đắk Tân.

Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk kể từ ngày 06/12/2019, có mặt.

- Luật sư bào chữa cho các bị cáo N, V, T, H: Luật sư Nguyễn Mai H – Văn phòng Luật sư N;

Địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Người bị hại: Anh Quảng Chí Hoàng S, sinh năm 2000; Địa chỉ: huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 ngày 11/12/2017, tại quán BBQ thuộc tổ dân phố 8, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Phan Nguyên V; Đào Văn H, Đoàn Văn N , Trần Văn T, Lê Văn D cùng một số bạn bè tổ chức ăn sinh N của chị Phan Thị A.

Cùng lúc này ở bàn bên cạnh có Phạm Quốc T; Quảng Chí Hoàng S cùng một số bạn bè khác cũng ăn nhậu mừng sinh N anh T.

Trong lúc ăn nhậu, bên bàn nhậu của T có người (chưa xác định được ai) ném 01 chiếc ly thủy tinh trúng vào tường của quán nhậu làm ly bể rơi xuống nền quán gần chỗ Phan Nguyên V đang ngồi. Bực tức do bị ném ly bia vỡ rớt gần trúng mình trong tiệc sinh N của chị gái nên V đi đến lấy chìa khóa phòng trọ của A và chìa khóa xe mô tô của T đang để trên ghế, rồi rủ T đi về phòng trọ của A ở tổ dân phố 6, thị trấn E, huyện E lấy hung khí thì T đồng ý.

Sau đó, T điều khiển mô tô Yamaha nhãn hiệu Exciter của T chở V đi về phòng trọ của A. Tại đây, V lấy 01 chiếc túi màu đỏ đen bên trong có 01 con dao rựa dài khoảng 1,2m; 01 cây kiếm bằng kim loại dài khoảng 1m; 03 cây giáo có cán bằng ống tuýp kim loại được hàn với lưỡi dạng dao bầu bằng kim loại dài khoảng 1,2m rồi mang đến quán BBQ. Khi đến nơi, Lê Văn T1 là bạn của V nhìn thấy nên nói V, T và những người còn lại trong bàn đi ra ngoài và không được đánh nhau.

Lúc này, H đến mở túi và lấy 01 cây kiếm; N lấy 01 con dao rựa; V, T mỗi người lấy ra 01 cây giáo; Lê Văn D nhìn thấy 01 cây giáo rơi ra khỏi chiếc túi nên đến lấy bỏ vào trong túi, do sợ bị liên lụy nên D không tham gia mà cùng một số bạn gái ra bên ngoài quán BBQ đứng.

Khi nghe thấy tiếng người nói T1 bị đánh (không xác định được là ai) thì H, N, V, T cầm hung khí chạy vào bên trong quán BBQ, H lao đến bàn nhậu của T để chém thì bị Lê Hà Tường V cản lại, V dùng cây giáo chém về hướng Quảng Chí Hoàng S thì bị A ôm kéo lại nên V chém sượt lưng S. Lúc này, N đứng trong tư thế đối diện cách anh S khoảng 01 mét, dùng 02 tay cầm dao rựa chém 01 nhát theo hướng từ trên xuống trúng vào đầu anh S, làm anh S bị ngã ngồi bệt xuống nền quán, N tiếp tục cầm dao rựa bằng cả 02 tay chém nhát thứ 02 theo hướng từ trên xuống vào vùng đầu của anh S, thì anh S đưa tay trái lên đỡ làm nhát dao chém đứt gần lìa cổ tay trái của anh S. T thấy N đã chém S nên không đánh ai nữa mà cùng N, H, V cầm hung khí chạy ra ngoài quán BBQ thì gặp D đang đứng ở bên ngoài.

Sau đó, T điều khiển mô tô chở D, H, N và V mang theo hung khí đi đến đoạn đường hẻm thuộc địa phận huyện E vứt bỏ. Sau khi xảy ra sự việc, anh S được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk, sau đó chuyển đến Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình T phố Hồ Chí Minh để điều trị. Đến ngày 22/12/2017, N đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận pháp y thương tích số: 105/PY-TgT ngày 28/12/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận Quảng Chí Hoàng S bị: Đa thương, đứt gần lìa cổ tay trái, tỉ lệ thương tật 35%, vật tác động, sắc bén.

Tại bản kết luận pháp y bổ sung số: 470/PY-TgT ngày 03/4/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận Quảng Chí Hoàng S bị: Vết thương phức tạp cổ tay trái 35%, vết thương đầu 10%, cộng lùi 7%. Tổng tỉ lệ thương tật là 42%, vật tác động sắc bén Với các nội dung trên, Tại bản án hình sự sơ thẩm số 43/2020/HSST ngày 02/6/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

[1] Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn N, Phan Nguyên V, Trần Văn T, Đào Văn H phạm tội “Giết người” [2] Về áp dụng điều luật và hình phạt:

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Văn N 15 (Mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 22/12/2017.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s, b khoản 1 Điều 51; Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Nguyên V 14 (Mười bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 27/02 /2019 (Ngày chấp hành Bản án hình sự phúc thẩm số 396/2018/HSPT ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến ngày 21/8/2018).

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn T 12 (Mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2019 (Ngày chấp hành bản án hình sự sơ thẩm số 80/2018/HSST ngày 03/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk). Được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 17/4/2018 đến ngày 13/6/2018.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đào Văn H 14 (Mười bốn) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 02/02/2020 (Ngày chấp hành xong hình phạt tù của bản án số 49/2018/HSST ngày 05/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk) Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo.

Trong thời hạn luật định, Ngày 03/6/2020 bị cáo Phan Nguyên V có đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại tội danh và hình phạt của bị cáo.

Ngày 05/6/2020, bị cáo Đào Văn H có đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại tội danh và hình phạt của bị cáo Ngày 08/6/2020, bị cáo Đoàn Văn N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại tội danh và trách nhiệm dân sự của bản án sơ thẩm.

Ngày 11/6/2020, bị cáo Trần Văn T có đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại tội danh và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phan Nguyên V, Trần Văn T, Đào Văn H giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Văn N giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 11/12/2017 tại quán nhậu BBQ thuộc huyện E, tỉnh Đăk Lăk, chỉ vì bực tức nhóm người ở bàn nhậu bên cạnh ném ly vào tường, Phan Nguyên V cùng Trần Văn T về nhà trọ lấy hung khí gồm dao rựa, kiếm và giáo tự chế, rồi quay lại quán nhậu cùng Đoàn Văn N và Đào Văn H thực hiện hành vi chém vào đầu, tay anh Quảng Chí Hoàng S, gây thương tích 42%. Toà án cấp sơ thẩm xét xử Phan Nguyên V, Trần Văn T, Đoàn Văn N, Đào Văn H về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo Phan Nguyên V, Trần Văn T, Đoàn Văn N và Đào Văn H.

Xét hành vi của các bị cáo thì thấy: Đoàn Văn N là người thực hiện hành vi quyết liệt nhất, dùng dao rựa chém vào đầu, tay anh Quảng Chí Hoàng S; Phan Nguyên V là người đưa ra ý kiến về nhà lấy hung khí để chém người, là người gây ra nguyên nhân dẫn đến việc chém nhau, bị cáo cũng là người tham gia chém S nhưng chỉ chém trượt; Trần Văn T và Đào Văn H có vai trò hỗ trợ các bị cáo khác nên chịu trách nhiệm với vai trò đồng phạm đối với tội “Giết người”.

Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, bị cáo N, V và H đều cho rằng hình phạt đối với bị cáo là nặng so với hành vi của bị cáo; T cho rằng mình chỉ mong muốn hù doạ bị hại, T không gây ra thương tích cho bị hại, gia đình T đã khắc phục phần lớn hậu quả gây ra. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy, chỉ vì lý do nhỏ nhặt là có người ném ly vào tường mà các bị cáo đã chuẩn bị hung khí, cùng nhau tấn công người bị hại vào những vùng trọng yếu, gây thương tích 42%, việc người bị hại không chết là do cứu chữa kịp thời, nên cần phải có hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo. Toà án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo Đoàn Văn N 15 năm 06 tháng tù; Phan Nguyễn V 14 năm 06 tháng tù; Đào Văn H 14 năm tù; Trần Văn T 12 năm tù cùng về tội “Giết người” là không nặng, nằm trong khung hình phạt. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ vai trò của từng bị cáo để, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như T khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục một phần hậu quả, sau khi phạm tội đã ra đầu thú, các bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Đào Văn H có vai trò tương tự bị cáo Trần Văn T nhưng bị cáo thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự nên phải chịu hình phạt nặng hơn.

Bị cáo Đoàn Văn N kháng cáo đề nghị xem xét lại trách nhiệm dân sự, xét thấy, án sơ thẩm xử buộc bị cáo Đoàn Văn N phải bồi thường cho anh Quảng Chí Hoàng S tổng số tiền 127.759.300 đồng, đã bồi thường 10 triệu đồng, nên còn phải bồi thường 117.759.300 đồng. Xét mức bồi thường án sơ thẩm xác định là đúng pháp luật, phù hợp với thực tế chi phí cho người bị hại. Nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo về phần dân sự.

Từ phần tích trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Phan Nguyên V, Trần Văn T, Đoàn Văn N và Đào Văn H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo V, T, H giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo N. Đề nghị này có một phần không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.

[5]. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 của Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Văn N, Phan Nguyên V, Trần Văn T, Đào Văn H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk 1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt:

- Bị cáo Đoàn Văn N: 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 22/12/2017.

- Bị cáo Phan Nguyên V: 14 (mười bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 27/02/2019 (Ngày chấp hành Bản án hình sự phúc thẩm số 396/2018/HSPT ngày 30/11/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Đăk Lăk. Được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 11/01/2018 đến ngày 21/8/2018).

- Bị cáo Trần Văn T: 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 05/01/2019 (Ngày chấp hành Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2018/HSPT ngày 03/10/2018 của Toà án nhân dân huyện E, tỉnh Đăk Lăk. Được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 17/04/2018 đến ngày 13/6/2018).

- Bị cáo Đào Văn H: 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 02/02/2020 (Ngày chấp hành Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2018/HSST ngày 05/06/2018 của Toà án nhân dân huyện E, tỉnh Đăk Lăk).

2. Về trách nhiệm dân sự Áp dụng Điều 288, 586, 587, 590 Bộ luật dân sự Chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường của người bị hại, buộc bị cáo Đoàn Văn N, Phan Nguyên V, Đào Văn H, Trần Văn T phải liên đới bồi thường thiệt hại về mặt sức khỏe cho anh Quảng Chí Hoàng S số tiền còn lại là 215.518.600 (hai trăm mười lăm triệu năm trăm mười tám nghìn sáu trăm) đồng.

Cụ thể như sau:

Bị cáo Đoàn Văn N phải bồi thường số tiền 127.759.300 đồng, đã bồi thường số tiền 10.000.000 đồng nên còn phải bồi thường số tiền 117.759.300 đồng;

Bị cáo Phan Nguyên V phải bồi thường 76.655.580 đồng, đã bồi thường số tiền 30.000.000 đồng nên còn phải bồi thường số tiền 46.655.580 đồng;

Bị cáo Đào Văn H phải bồi thường số tiền là 25.551.860 đồng.

Bị cáo Trần Văn T phải bồi thường số tiền là 25.551.860 đồng, đã bồi thường số tiền 107.880.000 đồng nên được trả lại số tiền vượt quá mức bồi thường theo phần của mình là 82.328.140 đồng. Hoàn trả cho Trần Văn T số tiền là 82.328.140 đồng sau khi thu được của các bị cáo Đoàn Văn N, Phan Nguyên V và Đào Văn H.

Trong trường hợp người bị hại tiếp tục điều trị thương tích do các bị cáo đã gây ra, thì người bị hại có quyền tiếp tục yêu cầu các bị cáo phải bồi thường bằng một vụ án dân sự khác.

Bác một phần yêu cầu của người bị hại về việc yêu cầu các bị cáo Đoàn Văn N, Phan Nguyên V, Đào Văn H và Trần Văn T phải bồi thường đối với số tiền 823.312.400 đồng.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Đoàn Văn N, Phan Nguyên V, Trần Văn T, Đào Văn H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 189/2021/HS-PT ngày 20/04/2021 về tội giết người

Số hiệu:189/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về