Bản án 189/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 189/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Trong ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ s Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 195/2020/TLST- HS ngày 21 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 207/2020/QĐXXST-HS ngày 05/11/2020, Quyết định hoãn phiên tòa sơ thẩm số 12/2020/HSST-QĐ ngày 27/11/2020 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 230/2020/QĐXXST-HS ngày 10/12/2020, đối với bị cáo: Phạm Ngọc Minh L, sinh năm: 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Số 10/8 Đường P, Phường V, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm công; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Ngọc Minh U © và bà Đặng Thị I; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt tạm giữ từ ngày 18/4/2020 đến ngày 21/4/2020 được trả tự do; sau đó bị bắt tạm giam từ ngày 20/10/2020 cho đến nay. (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông: Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1976 – Luật sư Văn phòng luật sư Bình Tân, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Địa chỉ VP: Số 840/31/1 Đường L, phường BĐ, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh). (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Diệp Văn M; sinh năm: 1959; nơi cư trú: Số 20/4 Đường P, Phường V, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

- Người làm chứng:

1/ Ông: Nguyễn Văn H1, sinh năm: 1979; nơi cư trú: Số 709 Đường P, Phường G, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

2/ Ông: Phạm Văn T1, sinh năm: 1972; nơi cư trú: Số 18/3 Đường P, Phường V, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

3/ Ông: Nguyễn Ngọc C1, sinh năm: 1957; nơi cư trú: Số 85/105/36 Đường R, Phường N, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

4/ Anh: Trần Trung D1, sinh năm: 1990; nơi cư trú: Số 22C chung cư Đường P, Phường B, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

5/ Ông: Nguyễn Văn N1, sinh năm: 1970; nơi cư trú: Số 8/6 Đường P, Phường V, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

6/ Ông: Nguyễn Văn V1, sinh năm: 1973; nơi cư trú: Số 6/4 Đường P, Phường V, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

7/ Ông: Phạm Ngọc Minh R1, sinh năm: 1975; nơi cư trú: Số 6/8 Đường P, Phường V, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

8/ Ông: Mạch Đức C2, sinh năm: 1977; nơi cư trú: Số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

9/ Ông: Nhan Đức B1, sinh năm: 1985; nơi cư trú: Số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).

- Người chứng kiến:

1/ Anh: Đinh Văn L1, sinh năm: 1990; nơi cư trú: Số 2594/7/4 Đường P, Phường J, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

2/ Anh: Lưu Văn T2, sinh năm: 1997; nơi cư trú: Số 45 Đường D, Phường M, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

- Người tham gia tố tụng khác:

1/ Anh: Lại Minh T3 – Cán bộ Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

2/ Anh: Doãn Minh C3 – Cán bộ Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

3/ Anh: Lê Văn Q1 – Phó Trư ng Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

4/ Anh: La Nguyễn Hoàng L2 – Điều tra viên thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

5/ Anh: Bùi Thành T4 – Điều tra viên thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

6/ Anh: Nguyễn Minh R2 – Cán bộ điều tra thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 45 phút, ngày 18/4/2020, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân có vụ việc đánh nhau tại nhà số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B. Thực hiện theo sự phân công của Ban chỉ huy Công an Phường 5, Quận 8; tổ công tác gồm: Anh Trần Trung D1 (Cảnh sát khu vực thuộc Công an Phường 5, Quận 8) và 04 Bảo vệ dân phố gồm: Ông Diệp Văn M, ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn Văn H1 và ông Phạm Văn T1 cùng đến hiện trường để giải quyết vụ việc. Khi xuống hiện trường, tổ công tác tuân thủ đúng quy định về trang phục cá nhân, bảng tên, . . . Khi đến hiện trường, tổ công tác phát hiện ông Phạm Ngọc Minh R1 đang đứng trước nhà ông R1 (số 6/8 Đường P, Phường V, Quận B) bị thương tích, chảy máu vùng mặt. Ông R1 đang cự cãi với người đánh nhau trước đó với ông là ông Nhan Đức B1 và ông Mạch Đức C2 (ông C2 là anh của ông B1, cả hai đang trong nhà số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B). Tổ công tác mời những người có liên quan đến vụ đánh nhau gây thương tích về trụ s Công an Phường 5, Quận 8 để làm việc. Khi ông B1 m cửa nhà số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B đi ra theo yêu cầu của tổ công tác thì Phạm Ngọc Minh L xuất hiện và lao về phía ông B1 dùng chân đạp vào ngực của ông B1 làm ông B1 té ngã, thấy vậy tổ công tác can ngăn L ra thì L chống đối, vùng vẫy và dùng tay phải đấm vào mặt bên trái của ông Diệp Văn M (Bảo vệ dân phố) rồi dùng chân phải đạp vào chân trái của ông Diệp Văn M làm ông M ngã xuống đất, chân ông M bị trầy xướt, chảy máu. Ông M tiếp tục đứng dậy can ngăn L thì L nói với ông M “Tao không muốn thấy mặt mày” rồi phun nước bọt vào mặt ông M, sau đó tiếp tục dùng chân phải đạp vào vùng bụng ông M. Do L quá manh động, nên tổ công tác khống chế bắt L đưa về trụ s Công an Phường 5, Quận 8 làm việc và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại trụ s Công an Phường và tại Cơ quan điều tra (trong thời gian bị tạm giữ) Phạm Ngọc Minh L đã khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi nêu trên.

Lời khai của Phạm Ngọc Minh L phù hợp với lời khai của các thành viên trong tổ công tác và lời khai của các nhân chứng có mặt tại hiện trường.

Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra (sau khi được trả tự do và được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”) Phạm Ngọc Minh L đã thay đổi lời khai và không thừa nhận hành vi đã thực hiện như đã nêu trên.

Phạm Ngọc Minh L khai nhận như sau: Lúc L đang nhậu với bạn thì nhận được cuộc điện thoại của người nhà gọi nói cho L biết chú ruột L là ông Phạm Ngọc Minh R1 bị đánh tại nhà 6/8 Đường P, Phường V, Quận B; nên L chạy về thì thấy ông R1 bị thương tích chảy máu vì trước đó đánh nhau với ông B1 và ông C2. Lúc này, đã có tổ công tác Công an Phường 5, Quận 8 đến giải quyết vụ việc. Ông B1 vừa nhà số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B m cửa đi ra thì L chạy đến dùng chân đạp vào người ông B1 01 cái, nhưng L không rõ có trúng ông B1 hay không; sau đó, L được người xung quanh căn ngăn (L không xác định được người đã can ngăn) và L vùng vẫy để thoát ra để tiếp tục tấn công ông B1 (L cũng không nhớ việc L vũng vẫy như thế nào) thì bị khống chế, kẹp cổ (L không rõ người nào) kéo L vào nhà ông R1. Lúc này, L nghe có người gọi L và nói L trong nhà để bên ngoài cho Công an giải quyết. Khoảng 10 phút sau, L đi ra dắt xe của L đẩy vào nhà thì bị lực lượng Công an Phường 5, Quận 8 bắt và dẫn giải L về trụ s làm việc. Trong thời gian tạm giữ tại Công an Phường 5, Quận 8, L nghe ông M nói với những người bảo vệ dân phố “lúc nãy thằng này hung hăng dữ lắm, nó đánh người ta rồi còn đánh tôi nữa”. Anh Lại Minh T3 (Công an Phường 5, Quận 8) có hỏi L về nội dung sự việc đánh ông M, nhưng L không thừa nhận. Anh Tùng nói với L “ông M nói mày đánh ổng như vậy thì mày thừa nhận đi, giải quyết sớm cho về, chỉ xử phạt thôi”. Do L mệt mỏi vì say xỉn nên đồng ý ký vào nội dung biên bản thừa nhận hành vi đánh ông M.

Tiếp tục làm việc với anh La Nguyễn Hoàng L2 (điều tra viên Công an Quận 8), L được vận động thành khẩn khai báo sẽ được xem xét giải quyết cho về sớm để đi làm, nên L nghĩ chỉ bị xử phạt hành chính và đã khai nội dung như đã khai với anh Tùng. L xác nhận chữ viết và chữ ký trên bản tự khai là của L, còn nội dung bản tự khai là do anh Long đọc cho L viết. L xác nhận lại là không có việc đánh ông M.

Ngày 19/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 ra Quyết định tạm giữ từ ngày 18/4/2020 đến ngày 21/4/2020 đối với Phạm Ngọc Minh L. Sau đó, ngày 21/4/2020, Cơ quan điều tra Công an Quận 8 ra Quyết định trả tự do đối với Phạm Ngọc Minh L.

Ngày 23/4/2020, Cơ quan điều tra kh i tố vụ án, kh i tố bị can, ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Phạm Ngọc Minh L về hành vi “Chống người thi hành công vụ”. Quá trình điều tra và thực nghiệm điều tra, L khai lúc đứng đối diện ông B1 trước nhà của ông B1, L có hành vi dùng chân phải đạp 01 cái nhưng không nhớ có trúng ông B1 hay không. Sau đó, L được nhiều người can ngăn (không xác định được là những ai) do L say xỉn nên sự việc sau đó L không nhớ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 tiến hành thực hiện đối chất giữa Phạm Ngọc Minh L với tổ công tác, nhưng vẫn không giải quyết được mâu thuẫn trong lời khai của Phạm Ngọc Minh L và tổ công tác.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, ông Diệp Văn M có đơn từ chối giám định thương tích do Phạm Ngọc Minh L tấn công gây ra cho ông và không yêu cầu kh i tố đối với L về hành vi tấn công gây thương tích cho ông M. Đối với ông Nhan Đức B1 cũng không có yêu cầu xử lý Phạm Ngọc Minh L về hành vi L dùng chân đạp vào vùng ngực của ông B1 làm ông B1 té ngã.

Riêng vụ đánh nhau giữa ông R1, ông B1, ông C2 đã được Công an Phường 5, Quận 8 tiếp nhận xử lý theo quy định của pháp luật. Ngày 18/5/2020, Công an Quận 8 đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các ông: Phạm Ngọc Minh R1, Nhan Đức B1, Mạch Đức C2 với hình thức phạt tiền mỗi người 2.500.000 đồng về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”.

Bản cáo trạng số 162/CT–VKS, ngày 21/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Phạm Ngọc Minh L về tội “Chống người thi hành công vụ” theo Khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Phạm Ngọc Minh L đã khai nhận toàn bộ hành vi tấn công ông Nhan Đức B1 (vì trước đó ông B1, ông C2 đánh nhau với chú của bị cáo là ông R1 và gây thương tích cho ông R1) và ông Diệp Văn M (bảo vệ tổ dân phố) mà bị cáo đã thực hiện. Bị cáo xác nhận: Bị cáo biết được ông Diệp Văn M là Bảo vệ tổ dân phố, đồng thời là tổ trư ng tổ dân phố nơi bị cáo cư trú và ông M là thành viên tổ công tác của Công an Phường 5, Quận 8 được phân công xuống giải quyết vụ việc đánh nhau giữa ông C2, ông B1 và ông R1 tại nhà số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B. Do bức xúc việc chú của bị cáo là ông R1 bị đánh chảy máu, nên bị cáo xông vào tấn công ông B1, do bị tổ công tác (trong đó có ông Diệp Văn M) ngăn cản không cho bị cáo tiếp tục tấn công ông B1 (mặc dù giữa bị cáo và ông M không có mâu thuẫn gì trước đó) nên bị cáo tức giận quay qua tấn công ông M (đánh, phun nước bọt và chửi mắng ông M). Bị cáo L khai nhận vì trước đó bản thân bị cáo đã có uống rượu, bia, nên không kiềm chế được sự nóng nảy; vì vậy đã có những hành động không đúng với ông B1 và ông M, bị cáo biết hành vi mà bị cáo đã thực hiện là vi phạm pháp luật. Do lo sợ bị bắt đi tù về hành vi chống người thi hành công vụ (hành vi chống đối, tấn công ông Diệp Văn M), nên bị cáo đã thay đổi lời khai so với lời khai ban đầu tại Công an Phường 5, Quận 8 và lời khai trong thời gian bị tạm giữ tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8; đồng thời, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội đã thực hiện, cũng như không ký nhận bất kỳ một văn bản tố tụng nào của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, mặc dù bị cáo được nghe đọc và được đọc các văn bản đó. Nay, bị cáo đã nhận thức được hành vi mà bị cáo đã thực hiện với ông Diệp Văn M là vi phạm pháp luật và thời gian bị tạm giam cho đến nay đã thức tỉnh bị cáo, nên bị cáo phải đối diện với sự thật và khai lại cho đúng với những gì đã diễn ra do bị cáo thực hiện để được hư ng sự khoan hồng của pháp luật. Giữa bị cáo L và những thành viên của tổ công tác Công an Phường 5, Quận 8; cũng như những người làm chứng, những người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác được tòa triệu tập không có mâu thẫn gì với nhau trước đó.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Ông Diệp Văn M) trình bày: Ông M là Bảo vệ dân phố, ông được Ban chỉ huy Công an Phường 5, Quận 8 phân công tham gia tổ công tác như trên để xuống hiện trường hỗ trợ giải quyết vụ việc đánh nhau tại nhà số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B (bảo vệ, giữ an ninh trật tự). Tuy nhiên, khi ông M phát hiện L tấn công ông B1 nên đã vào can ngăn thì bất ngờ bị L tấn công và chửi mắng (L dùng tay phải đấm vào mặt bên trái của ông M, rồi dùng chân phải đạp vào chân trái của ông M làm ông M ngã xuống đất, chân ông M bị trầy xướt, chảy máu. Ông M tiếp tục đứng dậy can ngăn L thì L nói với ông M “Tao không muốn thấy mặt mày” rồi phun nước bọt vào mặt ông M, sau đó tiếp tục dùng chân phải đạp vào vùng bụng ông M làm ông M té ngã) mặc dù giữa ông M và L chưa từng xảy ra mâu thuẫn gì trước đó. Do L quá manh động nên tổ công tác khống chế bắt đưa về trụ s Công an Phường làm việc. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, ông M đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Ông M đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo L theo đúng quy định của pháp luật.

- Người làm chứng:

1/ Ông Nguyễn Văn H1 trình bày: Ông Hải cũng là Bảo vệ dân phố, ông được Ban chỉ huy Công an Phường 5, Quận 8 phân công tham gia tổ công tác cùng với anh Trần Trung D1 (Cảnh sát khu vực thuộc Công an Phường 5, Quận 8) và 03 Bảo vệ dân phố gồm: Ông Diệp Văn M, ông Nguyễn Ngọc C1 và ông Phạm Văn T1 để xuống hiện trường hỗ trợ giải quyết vụ việc đánh nhau tại nhà số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B (bảo vệ, giữ an ninh trật tự). Sự việc Phạm Ngọc Minh L tấn công anh Bình và có hành vi chống đối, tấn công ông M đúng như bị cáo L và ông M đã khai trước tòa hôm nay. Tổ công tác đã thực hiện nhiệm vụ đúng theo quy định của pháp luật. Giữa bị cáo L và ông Hải không có mâu thẫn gì với nhau trước đó.

2/ Ông Phạm Văn T1 trình bày: Ông Thanh cũng là Bảo vệ dân phố, ông được Ban chỉ huy Công an Phường 5, Quận 8 phân công tham gia tổ công tác cùng với anh Trần Trung D1 (Cảnh sát khu vực thuộc Công an Phường 5, Quận 8) và 03 Bảo vệ dân phố gồm: Ông Diệp Văn M, ông Nguyễn Ngọc C1 và ông Nguyễn Văn H1 để xuống hiện trường hỗ trợ giải quyết vụ việc đánh nhau tại nhà số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B (bảo vệ, giữ an ninh trật tự). Sự việc Phạm Ngọc Minh L tấn công anh Bình và có hành vi chống đối, tấn công ông M đúng như bị cáo L và ông M đã khai trước tòa hôm nay. Tổ công tác đã thực hiện nhiệm vụ đúng theo quy định của pháp luật. Giữa bị cáo L và ông Thanh không có mâu thẫn gì với nhau trước đó.

3/ Ông Nguyễn Ngọc C1 trình bày: Ông Công cũng là Bảo vệ dân phố, ông được Ban chỉ huy Công an Phường 5, Quận 8 phân công tham gia tổ công tác cùng với anh Trần Trung D1 (Cảnh sát khu vực thuộc Công an Phường 5, Quận 8) và 03 Bảo vệ dân phố gồm: Ông Diệp Văn M, ông Phạm Văn T1 và ông Nguyễn Văn H1 để xuống hiện trường hỗ trợ giải quyết vụ việc đánh nhau tại nhà số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B (bảo vệ, giữ an ninh trật tự). Sự việc Phạm Ngọc Minh L tấn công anh Bình và có hành vi chống đối, tấn công ông M đúng như bị cáo L và ông M đã khai trước tòa hôm nay. Tổ công tác đã thực hiện nhiệm vụ đúng theo quy định của pháp luật. Giữa bị cáo L và ông Công không có mâu thẫn gì với nhau trước đó.

4/ Ông Trần Trung D1 trình bày: Ông Dũng là Cảnh sát khu vực thuộc Công an Phường 5, Quận 8; ông được Ban chỉ huy Công an Phường 5, Quận 8 phân công tham gia phụ trách tổ công tác cùng với 04 Bảo vệ dân phố gồm: Ông Diệp Văn M, ông Phạm Văn T1, ông Nguyễn Văn H1 và ông Nguyễn Ngọc C1 để xuống hiện trường giải quyết vụ việc đánh nhau tại nhà số 6/7 Đường P, Phường V, Quận B. Khi tổ công tác xuống hiện trường, bản thân ông Dũng có yêu cầu mọi người đang tụ tập giải tán để tổ công tác làm nhiệm vụ thì bất ngờ Phạm Ngọc Minh L tấn công anh Nhan Đức B1 tại trước nhà anh Bình. Sự việc Phạm Ngọc Minh L tấn công anh Bình và có hành vi chống đối, tấn công ông Diệp Văn M (là thành viên tổ công tác) đúng như bị cáo L và ông M đã khai trước tòa hôm nay. Trong khi làm nhiệm vụ, tổ công tác đã thực hiện nhiệm vụ đúng theo quy định của pháp luật. Giữa bị cáo L và ông Dũng không có mâu thẫn gì với nhau trước đó.

5/ Ông Nguyễn Văn N1 trình bày: Ông Nên là hàng xóm với Phạm Ngọc Minh L và không có mâu thuẫn gì với nhau. Sự việc L tấn công đánh ông M thì ông Nên có chứng kiến như lời khai của L và ông M tại tòa hôm nay. Tuy nhiên, do ồn ào khi sự việc xảy ra, nên ông Nên không nghe được L đã chửi ông M như thế nào.

6/ Ông Nguyễn Văn V1 trình bày: Ông Việt là hàng xóm với Phạm Ngọc Minh L và không có mâu thuẫn gì với nhau. Sự việc L tấn công đánh ông M thì ông Việt có chứng kiến như lời khai của L và ông M tại tòa hôm nay. Tuy nhiên, do ồn ào khi sự việc xảy ra, nên ông Việt không nghe được L đã chửi ông M như thế nào.

7/ Ông Phạm Ngọc Minh R1 trình bày: Ông R1 là chú của Phạm Ngọc Minh L, sự việc đánh nhau giữa ông R1 và ông C2, ông B1 là có thật và ông R1 bị thương tích, chảy máu vùng mặt. Do trước đó L có uống rượu, bia nên L có đạp ông B1 té ngã, sau đó bị ông M can ngăn nên L đã đánh ông M như L đã khai.

8/ Ông Mạch Đức C2 trình bày: Ông C2 là hàng xóm với Phạm Ngọc Minh L và không có mâu thuẫn gì với nhau. Sự việc L tấn công đánh ông M thì ông C2 không có chứng kiến vì sau khi xảy ra sự việc đánh nhau giữa ông C2, ông B1 và ông R1 thì ông C2 đã vào nhà đóng cửa lại; nên mọi việc bên ngoài diễn ra như thế nào thì ông C2 không rõ.

9/ Ông Nhan Đức B1 trình bày lời khai trong quá trình điều tra: Sự việc L tấn công đánh ông Diệp Văn M thì ông C2 không có chứng kiến vì sau khi bị L dùng chân đạp vào vùng bụng, ông B1 bị té ngã đập đầu xuống đất và bị choáng người; lúc này ông B1 nhìn thấy Công an cùng bảo vệ dân phố can ngăn L, nhưng L vùng vẫy thoát ra và tiếp tục xông đến tấn công ông B1 thì ông B1 bỏ chạy vào trong nhà đóng cửa nhà lại; Sau đó, ông B1 nghe bên ngoài ồn ào và Công an Phường mời ông C2, ông B1 về Phường làm việc thì ông B1 mới biết L đã có hành vi tấn công M trong lúc ông M ngăn cản L tấn công ông B1.

- Người chứng kiến:

1/ Anh Đinh Văn L1 trình bày: Anh L được cơ quan điều tra mời chứng kiến các buổi làm việc với Phạm Ngọc Minh L, giữa anh L và bị cáo Phạm Ngọc Minh L không quen biết và không có mâu thuẫn gì với nhau trước đó. Cán bộ của cơ quan điều tra trong các buổi làm việc với bị cáo L đã thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có đe dọa, không có quát nạt, không có bức cung, không có dùng nhục hình. Quá trình làm việc, bị cáo L đã được cán bộ của cơ quan điều tra giải thích, đã được nghe đọc lại và được tự đọc lại nội dung trong các biên bản làm việc, nhưng không chịu ký tên vào các biên bản đó.

2/ Anh Lưu Văn T2 trình bày: Anh Thành được cơ quan Viện Kiểm sát mời chứng kiến các buổi làm việc với Phạm Ngọc Minh L, giữa anh Thành và bị cáo Phạm Ngọc Minh L không quen biết và không có mâu thuẫn gì với nhau trước đó. Cán bộ của cơ quan cơ quan Viện Kiểm sát trong các buổi làm việc với bị cáo L đã thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có đe dọa, không có quát nạt, không có dùng nhục hình. Quá trình làm việc, bị cáo L đã được cán bộ của cơ quan Viện Kiểm sát giải thích, đã được nghe đọc lại và được tự đọc lại nội dung trong các biên bản làm việc, nhưng không chịu ký tên vào các biên bản đó.

- Người tham gia tố tụng khác:

1/ Anh Lại Minh T3 – Cán bộ Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh trình bày: Anh Tùng là cán bộ Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi tiếp nhận vụ việc liên quan đến Phạm Ngọc Minh L có hành vi chống người thi hành công vụ, anh Tùng đã thực hiện nhiệm vụ đúng theo quy định pháp luật. Việc bị cáo Phạm Ngọc Minh L khai tại Cơ quan điều tra liên quan đến việc anh Tùng hướng dẫn lời khai thừa nhận hành vi phạm tội để được cho về sớm và chỉ xử phạt hành chính là không đúng. Nay tại tòa, bị cáo L đã xác nhận tự bị cáo khai nhận tại trụ s Công an Phường 5, Quận 8 về nội dung diễn biến hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nên anh Tùng không có ý kiến.

2/ Anh Doãn Minh C3 – Cán bộ Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh trình bày: Anh Châu là cán bộ Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi tiếp nhận vụ việc liên quan đến Phạm Ngọc Minh L có hành vi chống người thi hành công vụ, anh Châu đã thực hiện nhiệm vụ đúng theo quy định pháp luật. Nay tại tòa, bị cáo L đã xác nhận tự bị cáo khai nhận tại trụ s Công an Phường 5, Quận 8 về nội dung diễn biến hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nên anh Châu không có ý kiến.

3/ Anh Lê Văn Q1 – Phó Trư ng Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh trình bày: Anh Quốc là Phó Trư ng Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh và được Ban chỉ huy Công an Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phân công trực ban lãnh đạo giải quyết vụ việc xảy ra liên quan đến an ninh trật tự (phòng chống tội phạm) trên địa bàn của Phường. Khi tiếp nhận vụ việc liên quan đến Phạm Ngọc Minh L có hành vi chống người thi hành công vụ, anh Quốc đã cùng cán bộ trực ban của đơn vị thực hiện nhiệm vụ đúng theo quy định pháp luật. Nay tại tòa, bị cáo L đã xác nhận tự bị cáo khai nhận tại trụ s Công an Phường 5, Quận 8 về nội dung diễn biến hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nên anh Quốc không có ý kiến.

4/ Anh La Nguyễn Hoàng L2 – Điều tra viên thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh trình bày: Anh Long là Điều tra viên thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Anh Long được phân công điều tra vụ án và quá trình điều tra, anh Long đã thực hiện và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, không có lời nói vận động bị cáo L thành khẩn khai báo sẽ được xem xét giải quyết cho về sớm để đi làm và không có việc anh Long đọc cho L viết nội dung về diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo L. Nội dung lời khai nhận về vụ án là do tự bị cáo tự khai nhận, anh Long không dẫn cung, không ép cung, không đe dọa và không có dùng nhục hình trong quá trình điều tra vụ án. Nay tại tòa, bị cáo L đã xác nhận tự bị cáo khai nhận tại trụ s Công an Phường 5, Quận 8 và tại trụ s của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 về nội dung diễn biến hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nên anh Long không có ý kiến.

5/ Anh Bùi Thành T4 – Điều tra viên thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh trình bày: Anh Tú là Điều tra viên thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Anh Tú được phân công điều tra vụ án và quá trình điều tra, anh Tú đã thực hiện và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật. Nội dung lời khai về vụ án là do tự bị cáo tự khai nhận, anh Tú không dẫn cung, không ép cung, không đe dọa và không có dùng nhục hình trong quá trình điều tra vụ án. Nay tại tòa, bị cáo L đã xác nhận tự bị cáo khai nhận tại trụ s Công an Phường 5, Quận 8 và tại trụ s của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 về nội dung diễn biến hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nên anh Tú không có ý kiến.

6/ Anh Nguyễn Minh R2 – Cán bộ điều tra thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh trình bày: Anh Trí là cán bộ điều tra thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Anh Trí được phân công cùng Điều tra viên để thực hiện nhiệm vụ điều tra vụ án đối với Phạm Ngọc Minh L có hành vi chống người thi hành công vụ. Quá trình điều tra, anh Trí đã thực hiện và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật. Nội dung lời khai về vụ án là do tự bị cáo tự khai nhận và anh Trí đã ghi chép lại đúng nội dung khai nhận của bị cáo L. Bản thân Điều tra viên cũng như anh Trí không dẫn cung, không ép cung, không đe dọa và không có dùng nhục hình trong quá trình điều tra vụ án. Nay tại tòa, bị cáo L đã xác nhận tự bị cáo khai nhận tại trụ s Công an Phường 5, Quận 8 và tại trụ s của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 về nội dung diễn biến hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nên anh Trí không có ý kiến.

- Kiểm sát viên trình bày luận tội:

Qua xét hỏi và toàn bộ diễn biến tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo L như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Khoản 1 Điều 330; điểm d Khoản 1 Điều 52; điểm i, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo Phạm Ngọc Minh L mức án từ 01 năm tù đến 02 năm tù.

- Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Luật sư bào chữa thống nhất với Cáo trạng truy tố đối với bị cáo, thống nhất với tội danh, khung hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Phạm Ngọc Minh L như Kiểm sát viên đã đề nghị. Tuy nhiên, Luật sư bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử và đại diện Viện kiểm sát cân nhắc mức án đối với bị cáo theo đề nghị của Kiểm sát viên là quá nghiêm khắc, đề nghị giảm mức án so với mức án đề nghị của Kiểm sát viên và cho bị cáo được hư ng án treo.

- Kiểm sát viên phát biểu đối đáp, tranh luận với người bào chữa: Căn cứ vào hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, có đủ cơ s để buộc tội đối với bị cáo. Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo cũng đã được cân nhắc kỹ. Do đó, việc luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị giảm mức án so với mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị và cho bị cáo hư ng án treo là không có cơ s pháp luật, không đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và không đảm bảo tính răn đe bị cáo và công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Do đó, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và mức hình phạt tù đã đề nghị đối với bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo vẫn bảo lưu ý kiến tranh luận, bào chữa cho bị cáo và không có ý kiến gì khác.

- Bị cáo thống nhất với ý kiến của người bào chữa và không tranh luận, không bào chữa bổ sung.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Diệp Văn M đề nghị xử phạt tù bị cáo L theo quy định của pháp luật và không có ý kiến gì khác.

- Những người tham gia tố tụng khác còn lại không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ s nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của: Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên và người bào chữa: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi và quyết định của người tiến hành tố tụng, của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, của Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Ngọc Minh L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện liên quan đến việc bị cáo dùng vũ lực tấn công cản tr ông Diệp Văn M – Bảo vệ dân phố (là thành viên của tổ công tác thuộc Công an Phường 5, Quận 8) là người đang thi hành công vụ.

Xét lời khai tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với lời khai ban đầu của bị cáo tại trụ s Công an Phường 5, Quận 8 và tại Cơ quan điều tra (được thể hiện tại các Bản tự khai, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản ghi lời khai), phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; của người làm chứng, của người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án và phù hợp với nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nên căn cứ vào toàn bộ hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ s để xác định và kết luận: Hành vi của bị cáo Phạm Ngọc Minh L đã phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp „„Có tính chất côn đồ‟‟, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Ngọc Minh L là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực trật tự quản lý hành chính và khi thực hiện hành vi phạm tội thể hiện bản chất côn đồ, thái độ xem thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một khoảng thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra thật sự ăn năn hối cải về lỗi lầm đã gây ra; bản thân bị cáo đã hoàn thành việc thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần về hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Bản cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Phạm Ngọc Minh L là có cơ s pháp luật, đúng người, đúng tội. Việc Kiểm sát viên đề nghị xử phạt tù giam và không cho bị cáo hư ng án treo là có căn cứ pháp luật như Hội đồng xét xử đã phân tích như trên, nên được chấp nhận.

[6] Về ý kiến của người bào chữa cho bị cáo cũng như ý kiến của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt tù dưới mức đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ pháp luật như Hội đồng xét xử đã phân tích như trên, nên được chấp nhận. Tuy nhiên, ý kiến của người bào chữa cho bị cáo cũng như ý kiến của bị cáo đề nghị cho bị cáo được hư ng án treo là không có căn cứ pháp luật như Hội đồng xét xử đã phân tích như trên, nên không được chấp nhận.

[7] Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, ông Diệp Văn M từ chối giám định thương tích do Phạm Ngọc Minh L tấn công gây ra cho ông và không có yêu cầu xử lý đối với Phạm Ngọc Minh L về hành vi gây thương tích cho ông (dùng tay, chân tấn công ông M). Đối với ông Nhan Đức B1, trong giai đoạn điều tra cũng không có yêu cầu xử lý Phạm Ngọc Minh L về hành vi dùng chân đạp vào vùng ngực của ông B1 làm ông B1 té ngã. Đây là quyền tự đoạt của đương sự nên không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[8] Riêng hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác” của các ông: Phạm Ngọc Minh R1, Nhan Đức B1, Mạch Đức C2 đã bị Công an Quận 8 xử phạt vi phạm hành chính mỗi người 2.500.000 đồng.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 330; điểm i, điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Phạm Ngọc Minh L 11 (Mười một) tháng tù, về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 20/10/2020. {Bị cáo Phạm Ngọc Minh L được khấu trừ vào thời gian bị tạm giữ trước (từ ngày 18/4/2020 đến ngày 21/4/2020 được trả tự do) theo quy định của pháp luật}.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phạm Ngọc Minh L phải chịu số tiền là 200.000đñoàng (Hai trăm nghìn đồng).

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 189/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:189/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về