Bản án 189/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 189/2020/HS-ST NGÀY 18/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 186/2020/TLST- HS ngày 29 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 186/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Dương Ngọc H; sinh năm 1982 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: đội 16 xã Nghĩa Bình huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Đình N và bà: Mai Thị K; có vợ và 03 con; tiền án: ngày 08-8-2016 Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tiền sự: không; nhân thân: ngày 24-11- 2015 Phòng cảnh sát giao thông đường thủy công an tỉnh Nam Định xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ hàng cấm”,đã được xóa án tiền sự; bị bắt, tạm giữ ngày 23-3-2020, chuyển tạm giam ngày 01-4-2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 23-3-2020, tổ công tác Công an phường Mỹ Xá thành phố Nam Định kiểm tra hành chính đối với Dương Ngọc H đang đi xe máy biển kiểm soát 18H2 – 4811 tại khu vực ngã tư đầu đường N5A giao với quốc lộ 10, phường Mỹ Xá, thành phố Nam Định. Quá trình kiểm tra H thả từ tay trái xuống dưới đường 01 túi ni lông màu trắng, mở kiểm tra bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, H khai là 01 gói ma túy đá. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa H cùng người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của H chiếc xe máy biển kiểm soát 18H2 – 4811, 01 chiếc điện thoại di động ASUS màu vàng, 01 chiếc điện thoại di động màu vàng, trắng VERTU đều đã cũ.

Bản Kết luận giám định số 352/GĐKTHS ngày 26-3-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 túi ni lông màu trắng được niêm phong ký hiệu là H gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng mẫu: 0,967 (không phẩy chín trăm sáu mươi bảy) gam.

Tại cơ quan điều tra, Dương Ngọc H khai: Khoảng 12 giờ ngày 23-3-2020, Dương Ngọc H điều khiển chiếc xe máy biển kiểm soát 18H2 – 4811 ( H mượn xe máy của chị Phạm Thị Mai Ngân, sinh năm 1991, nơi cư trú: xã Mỹ Thành huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định) một mình từ nhà vợ H tại thôn An Cổ, xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định đến nhà một người phụ nữ tên Oanh, nơi cư trú: khu vực ngã tư Quốc lộ 10 – Phạm Ngũ Lão, thành phố Nam Định mua qua cửa sổ 01 gói ma túy đá với số tiền 400.000 đồng. Sau đó H cầm gói ma túy đá vừa mua trên tay trái lên xe đi đến khu vực ngã tư đường N5A giao với Quốc lộ 10 phường Mỹ Xá thành phố Nam Định thì bị phát hiện, bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 185/CT-VKSTPNĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Dương Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, bị cáo Dương Ngọc H khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 36 tháng đến 42 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Dương Ngọc H không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Khoảng 13 giờ ngày 23-3-2020, bị cáo Dương Ngọc H bị Công an phường Mỹ Xá thành phố Nam Định bắt quả tang tàng trữ trái phép 01 túi ni lông màu trắng, mở kiểm tra bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, H khai là gói ma túy đá mua để sử dụng cho bản thân. Bản Kết luận giám định số 352/GĐKTHS ngày 26-3-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 túi ni lông màu trắng được niêm phong ký hiệu là H gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng mẫu: 0,967 (không phẩy chín trăm sáu mươi bảy) gam. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất do Nhà nước độc quyền quản lý nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy và tội phạm, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền sự đã bị xử lý vi phạm hành chính. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án đã bị kết án chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy. Chiếc điện thoại di động ASUS màu vàng, chiếc điện thoại di động màu vàng, trắng mặt sau ghi là VERTU là tài sản của bị cáo, không phải công cụ, phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 18H2 – 4811 thuộc quyền sở hữu của chị Phạm Thị Mai Ngân, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Phạm Thị Mai Ngân là đúng quy định của pháp luật

[6] Đối với đối tượng đã bán gói ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo Dương Ngọc H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Dương Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Dương Ngọc H 03 năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 23-3-2020.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 352/GĐKTHS, trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động ASUS màu vàng, chiếc điện thoại di động màu vàng, trắng VERTU nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng).

3. Án phí: Bị cáo Dương Ngọc H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Dương Ngọc H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 189/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:189/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về