TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 189/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 192/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 250/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Minh D, sinh năm 1991, tại Bình Thuận.
Nơi đăng ký HKTT: Khu phố Z, phường L, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh H (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1962; Vợ, con; chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 23/6/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 109/2009/HSST. Ngày 25/3/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 15 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 54/2014/HSST. Ngày 25/3/2013, bị Công an phường L xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi gây rối tại Quyết định số 650/XPHC; Bị cáo bị bắt quả tang và bị tạm giữ từ ngày 27/5/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Trần Ánh V– sinh năm 2003. Trú tại: Khu phố N, phường H, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (có mặt).
Người đại diện hợp pháp của Trần Ánh V là bà Nguyễn Thị Á – sinh năm 1975 (là mẹ ruột). Trú tại: Khu phố N, phường H, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (có mặt).
- Người chứng kiến:
Bùi Văn K – sinh năm 1951. Trú tại: Khu phố C, phường P, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Minh Dlà đối tượng nghiện ma túy. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 14 giờ ngày 24/5/2019, D sử dụng điện thoại di động của D có sim số 0964759271 gọi vào số điện thoại 0706504781 của đối tượng tên T (không r nhân thân) để h i mua ma túy đá với giá 3.000.000 đồng, T đồng ý và hẹn 03 ngày sau s giao ma túy cho D tại phòng trọ Phòng số 1, Nhà nghỉ Thu Hương (thuộc Khu phố C, phường P, thành phố Phan Thiết) mà D đang thuê để ở.
Khoảng 09 giờ ngày 27/5/2019, Trần Ánh V(sinh năm 2003, HKTT: khu phố 6, phường H, thành phố Phan Thiết) tới phòng trọ của D chơi. Đến khoảng 15 giờ 45 phút thì T đến, gõ cửa phòng trọ của D. D ra ngoài đưa cho T 3.000.000 đồng. T nhận tiền, sau đó đưa cho D 02 gói ma túy đựng trong 02 túi nylon hàn kín gồm: một gói có kích thước (6 x 3,5) cm và một gói kích thước (4 x 3,5) cm. D nhận ma túy rồi đi vào phòng trọ. Khoảng 05 phút sau khi D vào phòng trọ thì Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Bình Thuận đến phòng trọ của D để kiểm tra hành chính. D sợ bị phát hiện đang tàng trữ trái phép chất ma túy nên ném một gói ma túy đá kích thước (4 x 3,5) cm lên giường trong phòng trọ; gói còn lại, D đưa cho V bảo vào nhà vệ sinh phi tang cho D. V đồng ý cầm gói ma túy đi vào nhà vệ sinh trong phòng trọ, ném xuống bồn cầu nhưng chưa kịp xả nước thì bị Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Bình Thuận bắt quả tang, thu giữ tang vật liên quan gồm:
- 01 gói nylon không màu hàn kín, kích thước (4 x 3,5) cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, được thu giữ trên giường trong phòng trọ của D (ký hiệu M1 khi giám định);
- 01 gói nylon không màu hàn kín, kích thước (6 x 3,5) cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, được thu giữ trong bồn cầu nhà vệ sinh phòng trọ của D (ký hiệu M2 khi giám định);
(D khai nhận 02 gói nylon thu giữ trên là ma túy đá D vừa mua của đối tượng Tùng nhằm mục đích sử dụng).
- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm 01 chai nhựa, 01 đoạn ống hút màu đen gắn trên nắp nhựa, được thu giữ trong nhà vệ sinh phòng trọ của D;
- 01 cân tiểu ly;
- 01 điện thoại di động màu trắng, mặt sau có chữ OPPO;
- 01 điện thoại di động có chữ NOKIA, bên trong có sim số 0964759271;
- Tiền Việt Nam 4.000.000 đồng.
Tại bản kết luận giám định số 466/KLGĐ-PC09 ngày 04/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - ng an tỉnh Bình Thuận kết luận:
- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 1,2083 gam là Methamphetamine;
- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 4,9650 gam là Methamphetamine; (Tổng khối lượng ma túy của mẫu M1 và M2 là 6,1733gam Methamphetamine).
Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định:
- 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,6220 gam mẫu M1 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì 466/1, có chữ ký của Giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận;
- 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 2,4401 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì 466/2, có chữ ký của Giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận;
Trần Ánh Vđã có hành vi giúp sức cho Nguyễn Minh Dtàng trữ trái phép 01 tép Methamphetamine có khối lượng 4,9650 gam. Căn cứ giấy khai sinh thì V sinh ngày 16/3/2003 thì thời điểm thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 27/5/2019 Trần Ánh Vđã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, do khai sinh này bị đăng ký trễ hạn nên Cơ quan CSĐT đã tiến hành trưng cầu Phân viện khoa học hình sự - Bộ công an để xác định tuổi thực của Trần Ánh V.
Tại bản Kết luận số 4098/C09B ngày 06/9/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
Tại thời điểm giám định (tháng 9 năm 2019) Trần Ánh V có độ tuổi từ 16 năm 4 tháng đến 16 năm 10 tháng.
Căn cứ kết luận nêu trên, tính đến ngày 27/5/2019, theo nguyên tắc tính có lợi thì Trần Ánh V là người chưa đủ 16 tuổi.
Xử lý vật chứng:
Đối với 01 điện thoại di động màu trắng, mặt sau có chữ OPPO; Tiền Việt Nam 4.000.000 đồng thu giữ của Nguyễn Minh D. Xét thấy đây là tài sản cá nhân của D, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng trả lại cho Nguyễn Minh D.
Đối với số ma túy còn lại sau giám định; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm v chai nhựa, ống hút; 01 cân tiểu ly; 01 điện thoại di động màu đen, mặt trước và sau có chữ NOKIA, bên trong có sim số 0964759271. Hiện Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phan Thiết đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số192/CT-VKSPT-HS ngày 12/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận truy tố bị cáo Nguyễn Minh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Minh D từ 06 năm tù đến 07 năm tù.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án là số ma túy còn lại sau giám định; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm v chai nhựa, ống hút; 01 cân tiểu ly. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động màu đen, mặt trước và sau có chữ NOKIA, bên trong có sim số 0964759271.
- Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, tại bản cáo trạng, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng đã thu giữ cũng như các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Thuận lập hồi 16 giờ 00 phút ngày 27/5/2019 tại phòng số 1, nhà nghỉ Thu Hương thuộc Khu phố C, phường P, thành phố Phan Thiết; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Thuận; Kết luận giám định số 466/KLGĐ-PC09 ngày 04/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận.
[3] Nên có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 15 giờ 45 phút ngày 27/5/2019, Nguyễn Minh D đã có hành vi tàng trữ trái phép 6,1733 gam Methamphetamine tại phòng số 1, nhà nghỉ Thu Hương thuộc Khu phố C, phường P, thành phố Phan Thiết nhằm mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Thuận phát hiện và bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như nội dung cáo trạng đã truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, nhất là trong tình hình hiện nay tệ nạn ma túy đang lây lan, gây ra những hậu quả nguy hại trong cộng đồng xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy dưới bất cứ hình thức nào cũng là hành vi vi phạm pháp luật và bị nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn thực hiện. Do đó, xét thấy cần thiết phải xử lý bị cáo bằng một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra kh i đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.
[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo có nhân thân xấu, từng 02 lần bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản” và bị Công an phường L xử phạt hành chính về hành vi gây rối.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 nên cần xem xét khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng:
- 01 điện thoại di động màu trắng, mặt sau có chữ OPPO; Tiền Việt Nam 4.000.000 đồng thu giữ của Nguyễn Minh D. Xét thấy đây là tài sản cá nhân của D, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng trả lại cho Nguyễn Minh D. Xét thấy đã xử lý xong nên không đặt ra để xem xét nữa.
- 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,6220 gam mẫu M1 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì 466/1, có chữ ký của Giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Xét thấy đây là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy.
- 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 2,4401 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì 466/2, có chữ ký của Giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Xét thấy đây là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy.
- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm v chai nhựa, ống hút; 01 cân tiểu ly. Xét thấy đây là vật chứng vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động màu đen, mặt trước và sau có chữ NOKIA, bên trong có sim số 0964759271. Xét thấy đây là công cụ mà bị cáo sử dụng để liên lạc với đối tượng tên T (không r nhân thân) h i mua ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
Hiện các vật chứng trên đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 13/11/2019.
[7] Đối với Trần Ánh V đã có hành vi giúp sức cho Nguyễn Minh D tàng trữ trái phép 01 tép methamphetamine có khối lượng 4,9650 gam. Căn cứ vào ngày sinh ghi trên giấy khai sinh của Trần Ánh V là ngày 16/3/2019 thì thời điểm thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 27/5/2019 Trần Ánh V đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự nên Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phan Thiết đã khởi tố bị can đối với V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, căn cứ kết luận giám định về độ tuổi và tính theo nguyên tắc có lợi thì tại thời điểm thực hiện hành vi này, V chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phan Thiết đã rút Quyết định khởi tố bị can, đồng thời chuyển xử lý hành chính đối với V là có căn cứ, đúng pháp luật.
Đối với đối tượng tên T đã bán ma túy cho D, do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xác minh xử lý.
[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh D phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh D 06 (Sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 27/5/2019.
2. Xử lý vật chứng:
Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án gồm:
01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,6220 gam mẫu M1 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì 466/1, có chữ ký của Giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận;
01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 2,4401 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì 466/2, có chữ ký của Giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận;
01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm và chai nhựa, ống hút; 01 cân tiểu ly.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động màu đen, mặt trước và sau có chữ NOKIA, bên trong có sim số 0964759271.
Tất cả các vật chứng trên hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 13/11/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Minh D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/11/2019).
Bản án 189/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 189/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về