Bản án 189/2019/HS-ST ngày 02/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 189/2019/HS-ST NGÀY 02/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 7 năm 2019 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân thành phố Hạ Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 192/2019/HSST ngày 23/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 192/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Văn H - Sinh ngày 20/12/1983, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Tổ 16, khu 1, phường H, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn C và bà: Nguyễn Thị P; Có vợ: Vũ Thị H (Đã ly hôn), có một con sinh năm 2005. 

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 29/9/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 12/10/2010, chấp hành xong hình tù về địa phương và đã chấp hành xong phần dân sự trong bản án.

Bị cáo bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 04/01/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Trương Tuấn L - Sinh ngày 21/01/1985, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Tổ 29, khu 3, phường C, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không;

Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trương Văn T và bà: Nguyễn Thị H (Đã chết); Vợ con:  Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 28/01/2005, bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 18/5/2007, chấp hành xong hình tù về địa phương và đã chấp hành xong phần dân sự trong bản án.

Bị cáo bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 04/01/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Chị Đoàn Thị T - sinh năm 1991; Trú tại: Thôn Chùa, xã Tiền An, thị xã Quảng Yên. Hiện tạm trú: Tổ 7, khu 3B, phường Giếng Đáy, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xử vắng mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh: Đỗ Văn T – sinh năm 1991; Trú tại: Tổ 7, khu 3B, phường G, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa (Có đơn xin xử án vắng mặt).

2. Ông: Hoàng Viết M – sinh năm 1958; Trú tại: Tổ 5, khu 5, phường H,  TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa (Có đơn xin xử án vắng mặt).

3. Ông: Đặng Ngọc B – sinh năm 1963; Trú tại: Tổ 15, khu 2, phường H, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Ông: Cấn Ngọc H - sinh năm 1955; Trú tại: Tổ 2, khu 5, phường H, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh: Nguyễn Thành T - Sinh năm 1991; Trú tại: Tổ 55, khu 5, phường H, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Anh: Nguyễn Đức L - sinh năm 1978; Trú tại: Tổ 8, khu 4, phường Y, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 03/01/2019, Phạm Văn H và Trương Tuấn L đi bộ đến nhà ông Hoàng Viết M ở tổ 5, khu 5, phường H, thành phố Hạ Long để mượn xe mô tô. Khi đến nhà, ông M không có ở nhà. Do đã nhiều lần mượn xe mô tô của ông M đi, nên H đã tự ý vào sân lấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đen đỏ không có biển số của ông M, đi về nhà Hà. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, H rủ L đi trộm cắp tài sản, L đồng ý. Cả hai thống nhất, L điều khiển xe máy và đứng ngoài cảnh giới còn H sẽ trực tiếp trộm cắp. Sau đó, Long điều khiển xe máy Yamaha Sirius, không có biển số, màu đen chở Hà đi từ tổ 16, khu 1, phường H, thành phố Hạ Long sang phường Giếng Đáy xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi Hà cầm theo 01 vam phá khoá, đầu vam dài 7,5cm. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, cả hai đi đến dãy nhà trọ thuộc tổ 7, khu 3B, phường Giếng Đáy, thành phố Hạ Long thì phát hiện trước cửa dãy nhà trọ có dựng 03 xe máy. H bảo Lg đứng ở ngoài cảnh giới còn Hà đi vào dãy nhà trọ, dùng vam mang theo phá khoá điện xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen, biển kiểm soát 14X1-109.75 của chị Đoàn Thị T. Sau đó, Long và Hà điều khiển 02 xe máy về nhà ông Hoàng Viết M nhưng ông M không có nhà, Hà và Long định mang đi tiêu thụ, thì bị cơ quan Công an kiểm tra phát hiện, thu giữ. Vật chứng gồm: thu tại nhà con trai M liền kề nhà M xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đen đỏ không có biển số; thu tại phòng khách nhà ông M 01 xe máy màu vàng đen, biển kiểm soát 14X1-109.75, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; thu tại giường trong phòng ngủ nhà ông M 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 sổ bảo hiểm xe máy, 01 thẻ nhân viên công ty TNHH nến nghệ thuật AIDI Việt Nam, 03 thẻ ngân hàng đều mang tên Đoàn Thị T và 01 chiếc ví giả da màu nâu kích thước (10 x 15)cm của chị T. Thu tại túi áo khoác bên trái của Long 01 tay công chữ “Y” bằng kim loại, tại túi quần bên phải của Long: 01 tay công chữ “T” bằng kim loại kích thước (11 x 21)cm; 01 lưỡi đục bằng kim loại đầu dẹp dài khoảng 15cm; 01 gông kim loại mặt trên có chữ MEINFA, mặt sau có chữ JAPANTYPE. Thu tại túi quần bên phải của Hà 01 đầu vam bằng kim loại dài 7,5 cm.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Văn H và Trương Tuấn L thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên. Về Hoàng Viết M, H và L đều khai không bàn bạc với M về việc mượn xe của M để đi trộm cắp.

Tại Kết luận định giá tài sản số 02 ngày 07/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hạ Long, kết luận: Xe máy biển kiểm soát 14X1-109.75 của chị Đoàn Thị T, trị giá 7.374.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 37 ngày 09/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hạ Long, kết luận: 01 ví giả da, màu nâu, kích thước 10x15cm, đã qua sử dụng, trị giá 5.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 36 ngày 08/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hạ Long, kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius không gắn biển kiểm soát, số máy 5C63-029093, đã qua sử dụng, trị giá tại thời điểm bị xâm phạm tháng 6/2012 là 8.750.000 đồng, trị giá tại thời điểm ngày 03/01/2019 là 3.000.000 đồng.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu trên.

Người bị hại chị Đoàn Thị T có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo về nội dung vụ án. Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 14X1-1.75 là của chị mua từ năm 2013, nay chị đã được nhận lại chiếc xe và các giấy tờ tùy thân của chị bị mất, chị không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì khác. Về phần hình phạt: Chị đề nghị xử phạt các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Đỗ Văn T có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại về chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 14X1-1.75 là của vợ anh - chị Đoàn Thị T, có đăng ký tên chính chủ, nay vợ anh đã nhận lại chiếc xe và toàn bộ giấy tờ kèm theo, anh không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Viết M có lời khai: Khoảng 18 giờ ngày 03/01/2019, tôi cùng vợ con tôi đi ra ngoài chơi, khi đi tôi không khóa cửa. Trước đó, có L, H thường xuyên đến nhà tôi chơi với con trai tôi, có hỏi mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, không có biển kiểm soát, không có yếm của nhà tôi, nhưng chỉ nói mượn đi chơi. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, khi tôi cùng vợ con đi chơi về thì nhận được thông tin Công an đến kiểm tra nhà tôi có thu giữ 02 chiếc xe mô tô trong đó: có 01 chiếc xe Yamaha Sirius màu đỏ đen, không có biển kiểm soát, xe này do tôi cầm cố của một người tên D (Tôi không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu) với giá 2.000.000đ vào khoảng tháng 3/2018, đến nay không thấy D quay lại chuộc xe, nên tôi để lại sử dụng và 01 chiếc xe Yamaha Sirius màu vàng đen, biển kiểm soát 14X-1.975 do H và L đem đến để tại nhà tôi là xe tang vật trong vụ trộm cắp tại phường Giếng Đáy. Bản thân tôi không hứa hẹn hay bàn bạc trước việc trộm cắp hoặc tiêu thụ tài sản với L và H.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đặng Ngọc B có mặt tại phiên tòa có lời khai: Vào khoảng tháng 5 hoặc tháng 6 năm 2012 (Vì thời gian đã lâu nên tôi không nhớ chính xác), tôi có điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 14P8-84 đi làm từ nhà đến công trường trạm điện Thành Công thuộc Công ty than Hồng Gai, Quảng Ninh. Khoảng 11 giờ cùng ngày, khi tôi để xe ngay cạnh trạm điện nơi tôi đang làm việc đi vào trong trạm ăn cơm, khoảng 01 tiếng sau quay ra tôi phát hiện bị mất chiếc xe mô tô nêu trên, trong cốp xe có cả giấy đăng ký xe. Sau đó, tôi chỉ báo với đơn vị tôi đang làm việc chứ tôi không trình báo cơ quan Công an. Chiếc xe có số máy 5C63-029093, số khung: CS5C6307Y029, xe mua mới vào năm 2007 có giá 17.000.000đ, xe có đăng ký mang tên tôi là Đặng Ngọc B. Tôi không nghi ngờ cho ai đã trộm cắp xe của tôi. Nay tôi đã được cơ quan Công an trả lại chiếc xe, tôi không yêu cầu gì thêm.

Những người làm chứng ông Cấn Ngọc H, anh Nguyễn T và anh Nguyễn Đức L có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo, người bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về nội dung vụ án.

Tại Cáo trạng số 145/CT-VKSHL ngày 22/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố Phạm Văn H và Trương Tuấn L, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Văn H từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/01/2019; Bị cáo Trương Tuấn L từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/01/2019.

Về phần dân sự: Bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu nên không đề cập.

Đề nghị xử lý vật chứng và không đề nghị hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long và bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ

Long, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về nội dung vụ án: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời trình bày của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Hồi 20 giờ 30 phút ngày 03/01/2019, tại dãy nhà trọ thuộc tổ 7, khu 3B, phường Giếng Đáy, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Văn H và Trương Tuấn L có hành vi trộm cắp chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen, biển kiểm soát 14X1-1.75, trị giá 7.374.000 đồng; 01 ví giả da, màu nâu trị giá 5.000 đồng và một số giấy tờ cá nhân của chị Đoàn Thị T. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 7.379.000 đồng, thì bị cơ quan Công an kiểm tra phát hiện, thu giữ.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Phạm Văn H và Trương Tuấn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm.

[3] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Các bị cáo là người có nhân thân xấu, đều từng bị xét xử về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Xét về vai trò của các bị cáo trong vụ án thấy: Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn. Bị cáo Hà là người khởi xướng việc trộm cắp tài sản, người chuẩn bị công cụ phạm tội và là người trực tiếp lấy tài sản nên giữ vai trò chính, tiếp theo là bị cáo Long là giúp sức cho bị cáo Hà trong việc trộm cắp tài sản.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, nhưng cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về vật chứng:

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen, biển kiểm soát 14X1-1.75, số máy: 5C6K-089613, số khung: C6K0DY089727; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 006045; 01 giấy chứng minh nhân dân; 01 giấy phép lái xe số 221102002176; 01 sổ bảo hiểm xe mô tô số 160590623; 01 thẻ nhân viên công ty TNHH nến nghệ thuật AIDI Việt Nam; 03 thẻ ngân hàng (tất cả giấy tờ trên đều mang tên Đoàn Thị T); 01 chiếc ví giả da màu nâu kích thước (10 x 15)cm của chị T, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Đoàn Thị T nên Hội đồng xét xử không đề cập lại.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, không có biển kiểm soát, màu đen mà H và L lấy của ông M sử dụng để đi trộm cắp. Kết quả điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là ông Đặng Ngọc B, xe mang biển kiểm soát 14P8-84, bị mất trộm tại khu vực công trường than Thành Công tháng 6/2012. Nay cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe này cho ông Bảo nên Hội đồng xét xử cũng không đề cập xử lý.

- Đối với 01 tay công chữ “Y” bằng kim loại; 01 tay công chữ “T” bằng kim loại kích thước (11 x 21)cm; 01 lưỡi đục bằng kim loại đầu dẹp dài khoảng 15cm; 01 gông kim loại mặt trên có chữ MEINFA, mặt sau có chữ JAPANTYPE; 01 đầu vam bằng kim loại dài 7,5 cm, là vật chứng vụ án, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về phần dân sự: Người bị hại chị Đoàn Thị T đã lấy lại tài sản, nay không yêu cầu bồi thường gì khác; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đặng Ngọc Bảo đã được cơ quan điều tra trả lại chiếc xe mô tô; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Viết M không yêu cầu gì về chiếc xe mô tô bị thu giữ, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có công ăn việc làm, nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo.

[9] Nội dung khác: Quá trình điều tra xác định ông Hoàng Viết M không bàn bạc và không biết H và L sử dụng xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, không có biển số, số máy 5C63-029093 của mình để đi trộm cắp tài sản, nên không đề cập xử lý.

Đối với việc anh Đặng Ngọc B bị trộm cắp chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, không có biển số, số máy 5C63-029093 vào tháng 6 năm 2012, sau khi xác minh làm rõ, xét thấy đến nay đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nên không đề cập xử lý.

[10] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự. Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tuyên bố: Các bị cáo: Phạm Văn H và Trương Tuấn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt:

1. Bị cáo Phạm Văn H 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/01/2019.

2. Bị cáo Trương Tuấn L 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/01/2019.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 tay công chữ “Y” bằng kim loại; 01 tay công chữ “T” bằng kim loại; 01 lưỡi đục bằng kim loại; 01 gông kim loại mặt trên có chữ MEINFA, mặt sau có chữ JAPANTYPE và 01 đầu vam bằng kim loại.

 (Tình trạng như Biên bản giao vật chứng số 179/BB-THA ngày 01/7/2019 giữa Công an thành phố và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh).

- Về án phí: Áp dụng: khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo H và L, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, vắng  mặt bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (ông Hoàng Viết M và anh Đỗ Văn T).

Báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 189/2019/HS-ST ngày 02/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:189/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về