TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 188/2021/DS-PT NGÀY 07/06/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 07/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 476/2020/TLPT-DS ngày 17 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 82/2020/DS-ST ngày 18/09/2020 của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò bị kháng cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 522/2020/QĐ-PT ngày 22 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1952; địa chỉ: Số 102, ấp Bình An, xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện hợp pháp là chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1986; địa chỉ: Khóm A, TT Lấp Vò, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp là người đại diện ủy quyền.
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Tấn V, sinh năm 1971;
2. Bà Hồ Thị H, sinh năm 1974;
Cùng địa chỉ: Số A, ấp A, xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
- Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Mỹ T, sinh năm 1977;
2. Anh Nguyễn Minh T2, sinh năm 1979;
3. Anh Nguyễn Tấn T3, sinh năm 1981;
4. Anh Nguyễn Ngọc T4, sinh năm 1983;
5. Chị Nguyễn Thị Mỹ D2, sinh năm 1985;
6. Chị Nguyễn Thị Mỹ T, sinh năm 1973;
7. Anh Nguyễn Tiến T4, sinh năm 1992;
8. Anh Nguyễn Thanh T5, sinh năm 2000;
Cùng địa chỉ: Số A, ấp A, xã A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện hợp pháp của chị T, chị D2, anh T5, anh D, anh T3 là chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1986; địa chỉ: Khóm A, TT Lấp Vò, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp là người đại diện ủy quyền.
- Người kháng cáo là ông Nguyễn Tấn V là và bị đơn của vụ án.
- Ngày 02 tháng 10 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò có Quyết định kháng nghị số 02/QĐKNPT-VKS-DS ngày 02/10/2020.
(Các đương sự có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 65 là của cụ Nguyễn Thành L, Cao Thị P (là cha mẹ chồng của bà L), cụ L chết năm 2016, cụ P chết năm 2002, chồng bà L là ông Nguyễn Tấn Phát chết năm 2006, khi còn sống thì cụ L, cụ P có cho bà L với ông Phát (cho vào khoảng năm 1970), chỉ nói miệng không làm giấy tờ, đến năm 2010 bà L đi kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Nguyễn Thị L; bà L, cụ L, cụ P, ông Phát, anh V cất nhà gỗ, mái tol, vách gỗ, nền đất sử dụng chung từ năm 1970 đến năm 2000 anh V lấy vợ thì cụ L, bà L mới ngăn ra cho anh V với chị H ở tạm khi nào cụ L cho anh V phần đất khác thì anh V trả đất lại cho bà L (phần đang tranh chấp hiện nay), tuy nhiên, đến năm 2011 thì ông L cho anh V phần đất phía trên cặp quốc lộ 54, sau đó anh V đã bán xong nhưng không di dời trả đất lại cho bà L. Đến 2016 thì anh V sửa nhà lại hiện trạng căn nhà như hiện nay, lúc ông V xây dựng nhà lại thì bà L không tranh chấp gì đến cơ quan có thẩm quyền do bà L nghĩ anh V là con ruột của bà L.
Nay bà Nguyễn Thị L yêu cầu anh Nguyễn Tấn V và chị Hồ Thị H tháo dở di dời nhà và vật kiến trúc trả lại cho bà L diện tích theo đo đạc thực tế là 64,6 m2 thuộc một phần thửa 65, tờ bản đồ 57 (M4, M5, M11,M10, M4) hiện do hộ bà L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bị đơn Nguyễn Tấn V trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 65 là của cụ Nguyễn Thành L, Cao Thị P là ông nội, bà nội của anh V tạo lập. Bà L, cụ L, cụ P, ông Phát, anh V cất nhà gỗ, mái tol, vách gỗ, nền đất sử dụng chung từ năm 1970 đến năm 2000 anh V lấy vợ thì cụ L mới cho anh V phần đất đang tranh chấp hiện nay, lúc cụ L cho thì không làm giấy tờ gì, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà L thì anh V không biết, đến năm 2011 thì bà L có ký tờ cho đất anh V do lúc đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà L đã đứng tên, đến năm 2016 anh V sửa căn nhà lại như hiện nay, lúc sửa nhà thì bà L có biết nhưng không ý kiến gì, anh V có trình báo với ban nhân dân ấp để cất nhà.
Nay anh V không đồng ý với yêu cầu của bà L, anh V yêu cầu công nhận hợp đồng tặng cho giữa bà L với anh V đối với diện tích đo đạc thực tế là 64,6 m2 thuộc một phần thửa 65, tờ bản đồ 57 (M4, M5, M11,M10, M4) hiện do bà L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hiện anh V đang cất nhà sử dụng, anh V yêu cầu được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích nêu trên.
Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan là thành viên trong hộ của bà L thống nhất lời trình bày của bà L.
Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan chị Hồ Thị H thống nhất lời trình bày và yêu cầu của anh V.
* Tại quyết định của bản án sơ thẩm số 82/2020/DS-ST ngày 18/9/2020, Toà án nhân dân huyện Lấp Vò đã tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc anh Nguyễn Tấn V, chị Hồ Thị H trả giá trị quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị L với số tiền là 83.980.000 đồng.
Anh Nguyễn Tấn V, chị Hồ Thị H được quyền sử dụng đất với diện tích là 64,6 m2 thuộc một phần thửa 65, tờ bản đồ 57 (M4, M5, M11, M10 về M4) hiện do hộ bà Nguyễn Thị L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Anh Nguyễn Tấn V, chị Hồ Thị H được quyền đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm các thủ tục đăng ký, kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 64,6 m2 thuộc một phần thửa 65, tờ bản đồ 57 (trong chu vi các mốc M4, M5, M11, M10 về M4 theo sơ đồ đo đạc ngày 25/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò) do hộ bà Nguyễn Thị L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa BD 905165, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 04320 đối với thửa 65, tờ bản đồ 57 do hộ bà Nguyễn Thị L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Tấn V, chị Hồ Thị H diện tích đất 64,4m2 thể hiện trong chu vi các mốc M4, M5, M11, M10 về M4 theo sơ đồ đo đạc ngày 25/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò thuộc một phần thửa đất số 65, tờ bản đồ số 57, đất tọa lạc tại ấp Bình An, xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Anh Nguyễn Tấn V, chị Hồ Thị H phải chịu 2.571.000 đồng. Do bà Nguyễn Thị L đã nộp và chi xong nên buộc anh Nguyễn Tấn V, chị Hồ Thị H cho bà L số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 2.571.000 đồng (Hai triệu năm trăm bảy mươi mốt ngàn đồng) Về án phí: Anh Nguyễn Tấn V và chị Hồ Thị H phải chịu 4.199.000 đồng (Bốn triệu một trăm chín mươi chín ngàn đồng) tiền án phí sơ thẩm dân sự.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên quyền và thời hạn kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm;
- Ngày 02/10/2020, anh Nguyễn Tấn V kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu tòa án phúc thẩm xét xử, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho anh và chị H đối với diện tích đất tranh chấp 64,6m2, thuộc một phần thửa số 65, tờ bản đồ 57 do bà L đại diện hộ đứng tên quyền sử dụng.
- Ngày 02/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò có quyết định kháng nghị số 02/QĐKNPT-VKS-DS theo hướng sửa bản án sơ thẩm số 82/2020/DS-ST ngày 02/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L và đề nghị công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp phần đất tranh chấp cho bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm anh V vẫn giữ nguyên nội D2 kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp giữ nguyên kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò.
Căn cứ vào các T3 liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các T3 liệu chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm; sau khi nghe ý kiến của các đương sự và quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Tấn V, Hội đồng xét xử xét thấy:
Phần đất tranh chấp 64,4m2 là một phần của thửa đất số 65, tờ bản đồ 57 do bà L đại diện hộ đứng tên quyền sử dụng được cấp đầu tiên năm 2010. Nguồn gốc thửa đất này là của cha mẹ chồng bà L, là cụ Nguyễn Thành L (chết năm 2016) và cụ Cao Thị P (chết năm 2002).
Bà L cho rằng toàn bộ thửa đất này vợ chồng bà được cụ L, cụ P khi còn sống cho, thời điểm là vào khoảng năm 1970, tuy nhiên bà L không có chứng cứ gì để chứng minh, ngoài việc bà L kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên toàn bộ thửa đất này.
Phía anh V thì cho rằng diện tích đất tranh chấp, là diện tích căn nhà vợ chồng anh đang sử dụng là được ông L khi còn sống cho vợ chồng anh khi anh có vợ và ra ở riêng vào năm 2000. Việc vợ chồng anh V ra cất nhà ở riêng với cha mẹ là vợ chồng bà L, ông Phát là công khai và vợ chồng bà L cũng đồng ý, không có phát sinh tranh chấp gì, mà đến năm 2010 bà L mới kê khai và được cấp quyền sử dụng đất trên toàn bộ thửa đất trong đó bao trùm diện tích có căn nhà của vợ chồng anh V, trong khi không có ý kiến hay sự đồng ý nào của phía anh V, đến năm 2016 thì vợ chồng anh V sửa lại nhà như hiện nay thì bà L cũng không có ý kiến hay tranh chấp gì, điều đó chứng tỏ việc ông L cho phần đất vợ chồng anh V cất nhà ở là có thật và việc bà L kê khai và được cấp quyền sử dụng bao trùm lên diện tích đất vợ chồng anh V đang sử dụng là chưa phù hợp pháp luật.
Ngoài ra, đến năm 2011 thì bà L có ký tờ cho đất đối với anh V, việc này thì phía bà L cho rằng bà bị anh V lừa dối bà nhưng bà L không có gì để chứng minh về việc bà bị anh V lừa dối, nên lời trình bày này của bà L là không có cơ sở. Còn phía anh V thì cho rằng việc bà L làm tờ cho đất là do lúc đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà L đã đứng tên, điều này là phù hợp vì phù hợp thủ tục để tách quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh V. Còn đối với việc vào năm 2011, ông L có cho anh V một phần đất cặp Quốc lộ 54 là vụ việc khác.
Như vậy, Hội đồng xét xử xác định phần đất tranh chấp diện tích là 64,6m2 thuộc một phần thửa 65, tờ bản đồ 57 (theo các mốc M4, M5, M11,M10, M4) là do vợ chồng anh V, chị H được ông nội anh V là cụ L khi còn sống tặng cho; vợ chồng anh V đã cất nhà và sử dụng ổn định, nên cần phải công nhận quyền sử dụng diện tích đất này cho vợ chồng anh V, chị H được tiếp tục sử dụng và vì vậy vợ chồng anh V, chị H cũng không có nghĩa vụ phải trả giá trị đất cho bà L theo như bản án sơ thẩm đã tuyên. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh V.
Tại phiên tòa phúc thẩm anh Nguyễn Tấn V tự nguyện hổ trợ cho bà Nguyễn Thị L số tiền 5.000.000 đồng. Xét thấy đây là sự tự nguyện và phù hợp nên chấp nhận.
[2] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu về việc tuân thủ pháp luật từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đều thực hiện đúng quy định của pháp luật và không có kiến nghị. Về nội D2 vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp ý kiến giữ nguyên kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò, đề xuất hướng giải quyết vụ án, chấp nhận sự tự nguyện của anh V, sửa một phần bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L, công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho vợ chồng anh V, chị H, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị trên là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên anh V không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2, Điều 148 và khoản 2, Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 457, 459 Bộ luật dân sự và Điều 166 của Luật đất đai năm 2013;
Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
- Chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Tấn V và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò.
- Sửa bản án sơ thẩm số: 82/2020/DS-ST ngày 18/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L.
- Anh Nguyễn Tấn V, chị Hồ Thị H được quyền sử dụng đất với diện tích là 64,6 m2 thuộc một phần thửa 65, tờ bản đồ 57 (M4, M5, M11, M10 về M4); đất do bà Nguyễn Thị L đại diện hộ đứng tên quyền sử dụng đất.
- Anh Nguyễn Tấn V, chị Hồ Thị H được quyền đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm các thủ tục đăng ký, kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 64,6 m2 thuộc một phần thửa 65, tờ bản đồ 57 (trong phạm vi các mốc M4, M5, M11, M10 về M4 theo sơ đồ đo đạc ngày 25/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò).
- Đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp thu hồi một phần diện tích đất 64,4m2 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa BD 905165, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 04320 thuộc thửa 65, tờ bản đồ 57 do hộ bà Nguyễn Thị L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tọa lạc tại ấp Bình An, xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, để cấp lại cho anh Nguyễn Tấn V, chị Hồ Thị H (thể hiện trong phạm vi các mốc M4, M5, M11, M10 về M4 theo sơ đồ đo đạc ngày 25/11/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò).
Công nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Tấn V hổ trợ cho bà Nguyễn Thị L số tiền là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).
- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá T3 sản: Bà L phải chịu toàn bộ, là 2.571.000 đồng. Bà L đã tạm ứng và đã chi xong.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà L được miễn án phí.
- Về án phí phúc thẩm: Hoàn trả lại cho anh V 300.000 đồng tiền án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0009584 ngày 02/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.
- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 188/2021/DS-PT ngày 07/06/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 188/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 07/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về