TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 188/2017/HS-PT NGÀY 08/08/2017 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Vào ngày 08 tháng 8 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 204/2017/HSPT ngày 07/6/2017 đối với bị cáo Lê K về tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích”. Do có kháng cáo của bị cáo; người giám hộ cho bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 05/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
- Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:
Họ và tên: Lê K, sinh năm 1966; Nơi ĐKNKTT và chổ ở: phường CA, thành phố H, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Ngư nghiệp; trình độ văn hóa: 0/12 (mù chữ); con ông Lê C và bà Nguyễn Thị Đ (đều đã chết); vợ Lê Thị E, sinh năm 1966, có 03 con (con lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 2003); tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 19/02/1998 bị Tòa án nhân dân thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam, xử phạt bị cáo Lê K 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 09/11/2015, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam, có mặt tại phiên tòa.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Bùi Anh N – Văn phòng Luật sư QT thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Nam; có mặt.
Người giám hộ cho bị cáo Lê K: Bà Lê Thị E, sinh năm 1966 (Vợ của bị cáo).
Trú tại: phường CA, thành phố H, tỉnh Quảng Nam; có mặt.
- Người bị hại:
Anh Phạm Quốc H, sinh năm 1997 (đã chết); Trú tại: phường CC, thành ph H, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện hợp pháp của người bị hại Phạm Quốc H: Bà Lê Thị H1, sinh năm 1971 (mẹ ruột), trú tại: phường CC, thành phố H, tỉnh Quảng Nam; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại: Luật sư Nguyễn S – Văn phòng Luật sư NS, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
Chiều ngày 07/11/2015, Lê K đến nhà ông Lê Văn D (là anh con bác họ với Lê K) cách nhà Lê K khoảng 30m để chơi. Theo K khai khi đến nhà ông D thì thấy Lê Văn T (tên gọi khác: Bờm) và Lê Văn T1 (tên gọi khác: Beo) con ông D đang hít 1 gói giấy màu trắng nghi là hêrôin, Lê K giật lấy thì bị T, T1 chặn lấy lại nên Lê K bỏ đi về.
Khoảng 19 giờ ngày 08/11/2015, sau khi uống 02 chai bia, Lê K đi về nhà thì nhớ lại việc nhìn thấy T, T1 sử dụng ma túy nên Lê K đi đến nhà ông D, nói cho ông D biết để ông D có biện pháp giáo dục. Khi đi vào nhà, Lê K gặp T cùng với Nguyễn T2 và Phạm Quốc H đang ngồi nhậu tại hành lang trước nhà. Lê K đi thẳng xuống nhà bếp gặp ông D và con dâu là Trần Thị Hồng N đang ngồi ăn cơm. Lê K hỏi ông D “ăn cơm hả anh D, tôi xuống anh có chút việc”. Do biết K thường hay say rượu, nói năng lung tung nên ông D trả lời “tao biết rồi, thôi mi về đi”, còn Trần Thị Hồng N (đang có thai) không chịu được mùi thuốc lá nên nói “Chú K hút thuốc lá bay mùi hôi quá”. T đang ngồi nhậu tại hành lang cũng đi xuống nói với Lê K “Chú về đi, chứ chú hút thuốc hôi quá, vợ con không chịu được”. Nói xong, T đi lên hành lang tiếp tục nhậu. Lê K nghe ông D, N, T nói vậy, bỏ đi về. Khi đi qua hành lang nơi H, T, T2 đang ngồi nhậu thì Lê K chửi nên T nói “ông đi về đi để bọn tôi nhậu”. Lê K vẫn vừa đi về vừa chửi, T nghe Lê K chửi “tụi bây ngu như bò” thì tức giận đứng dậy đuổi theo Lê K ra tới sân, T xô đẩy Lê K về, H cũng chạy theo T ra sân xô đẩy Lê K về nhưng Lê K không chịu về. H và T dùng tay, chân đấm, đánh và đẩy đuổi Lê K ra khỏi cổng ngõ. T tiếp tục đánh Lê K còn H dùng chân đạp Lê K té ngã xuống đường bê tông. Lúc này, Lê Văn N (con trai Lê K) và Trần T3 đang đứng nói chuyện tại nhà Lê K (cách nhà ông D khoảng 30m) nghe tiếng ồn ào ở nhà ông D và tiếng la hét của Lê K nên N và T3 cùng chạy đến trước nhà ông D thì nhìn thấy H đạp Lê K té ngã. N, T3 đến can ngăn và kéo Lê K về. Nguyễn T2 từ trong nhà ông D chạy ra kéo H vào lại nhà ông D, T cũng đi vào nhà và kéo cổng ngõ lại. N, T3 kéo Lê K về một đoạn khoảng 10 mét thì Lê K không chịu về mà nói “tìm đôi dép cho tau”. N, T3 thả Lê K ra. Lê K, N và T3 cùng đi tìm dép của Lê K. Trong lúc tìm dép, Lê K nhìn thấy vỏ chai thủy tinh nằm ở dưới chân cây trụ điện chiếu sáng (sát tường rào cách cổng ngõ nhà ông D khoảng 5mét), Lê K nhặt vỏ chai thủy tinh lên, đập vỡ phần thân chai xuống đường, còn phần cổ chai Lê K cầm trên tay đi đến trước cổng ngõ nhà ông D nhằm mục đích đánh lại những người đã đánh K. Do cổng ngõ nhà ông D đã đóng nên Lê K đứng ngoài chửi vào nhà ông D. Bất ngờ H từ trong nhà ông D chạy ra, nhảy qua hàng rào (cao 80cm) xông đến xô xát và đạp Lê K ngã, thấy vậy T cũng chạy ra mở cổng ngõ, xông đến xô xát với Lê K thì bị Lê K cầm cổ chai thủy tinh đuổi và đâm vào người T, T bỏ chạy một đoạn thì bị ngã, Lê K đuổi theo tiếp tục đâm vào vùng hông trái của T làm T bị thương, T bỏ chạy vào hành lang nhà nằm. Ông D ở trong nhà nghe bên ngoài ồn ào, chạy ra can ngăn, xô đẩy Lê K về thì bị Lê K cầm cổ chai quơ đâm vào vùng bụng ông D gây thương tích. Lê Văn N nhìn thấy Lê K bị đạp ngã nên chạy đến thì bị H dùng chân đá vào người N khiến N và H đều ngã xuống đường bê tông. Khi Lê K nhìn thấy N bị H đạp ngã nên cầm cổ chai chạy về phía N. Còn N, sau khi bị H đạp ngã, N đứng dậy, thì vợ N (tên Nguyễn Thị H vẫn) đến kéo về nhà một đoạn khoảng 10 mét, vừa đi N vừa quay đầu lại nhìn về phía H thì thấy H đứng dậy, mặt quay vê phía N, lưng quay về phía nhà ông D, vừa đi lùi về hướng nhà ông D vừa chỉ tay về phía N chửi ( N không nghe rõ nội dung H chửi) thì bị Lê K cầm cổ chai thủy tinh chạy từ hướng nhà ông D đến dùng tay trái ôm H từ phía sau lưng, tay phải cầm cổ chai thủy tinh quơ vào người và đâm vào cổ H. Sau khi bị Lê K đâm trúng cổ, H đi được vài bước thì khuỵu ngã xuống đường bê tông. Lê K thấy H khuỵu ngã liền vứt cổ chai xuống đường rồi đi về nhà. H, D, T được mọi người đưa đi cấp cứu nhưng H đã tử vong.
Tại Bản kết luận giám định pháp y số: 304/GĐPY.15, ngày 12/11/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Nam, kết luận: Phạm Quốc H chết là do đa chấn thương, vết thương vùng cổ phải theo chiều hướng chếch từ trước ra sau, từ trênxuống dưới, từ phải sang trái gây rách động mạch cảnh gốc, chảy máu, choáng chấn thương, choáng mất máu, suy hô hấp, trụy tim mạch không hồi phục.
Tại Bản giám định pháp y số: 318/GĐPY.15, ngày 23/11/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Nam kết luận thương tích của Lê Văn D, tỷ lệ tổn hại sức khỏe tại thời điểm hiện tại 21%.
Tại Bản giám định pháp y số: 319/GĐPY.15, ngày 23/11/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Nam, kết luận thương tích Lê Văn T, tỷ lệ tổn hại sức khỏe tại thời điểm hiện tại 17%.
Tại Bản giám định pháp y số: 355/GĐPY.15, ngày 02/12/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Nam, kết luận thương tích Lê K, tỷ lệ tổn hại sức khỏe tại thời điểm hiện tại 10%.
Trong quá trình điều tra vụ án, nhận thấy Lê K có nhiều biểu hiện không bình thường, đồng thời gia đình có đơn đề nghị giám định tâm thần cho bị cáo Lê K. Ngày 29/02/2016, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam ra Quyết định trưng cầu số 07 đề nghị giám định tình trạng tâm thần của bị cáo Lê K trước, trong và sau khi gây án.
Tại Bản Kết luận giám định pháp y tâm thần số 331/KLGĐTC ngày 04 tháng 7 năm 2016 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Miền trung kết luận:
Tại thời điểm trước khi gây án:
a. Về mặt y học: Rối loạn loạn thần do rượu (F10.5).
b. Về mặt pháp luật: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Tại thời điểm gây án:
a. Về mặt y học: Rối loạn loạn thần do rượu (F10.5).
b. Về mặt pháp luật: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Tại thời điểm hiện tại:
a. Về mặt y học: Rối loạn loạn thần do rượu (F10.5).
b. Về mặt pháp luật: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năngđiều khiển hành vi. Đề nghị điều trị bắt buộc.
Ngày 05/8/2016, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam ra Quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc đối với Lê K. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam đã đưa Lê K đi chữa bệnh bắt buộc tại bệnh viện tâm thần Đà Nẵng từ ngày 09/8/2016 đến ngày 25/10/2016 thì bệnh ổn định. Ngày 26/10/2016, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đã ra Quyết định đình chỉ việc áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc đối với Lê K
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 05/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Lê K, phạm tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng khoản 2 Điều 93; khoản 2 Điều 104; điểm b, p, đ, n khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33; Điều 44; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 1999 và điểm X khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Lê K 05 (Năm) năm tù, về tội “Giết người” và 01 (Một) năm tù, về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp buộc bị cáo Lê K phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 06 (Sáu) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (ngày 09/11/2015).
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 590, 591 Bộ luật dân sự năm 2015. Công nhận sự thỏa thuận giữa những người bịhại, đại diện hợp pháp của người bị hại và bị cáo như sau:
Bị cáo Lê K có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tính mạng cho các đại diện hợp pháp của người bị hại Phạm Quốc H, số tiền là 125.000.000 đ (Một trăm hai mươi lăm triệu đồng); bị cáo đã bồi thường và đại diện hợp pháp đã nhận số tiền40.000.000 đồng; bị cáo còn tiếp tục bồi thường số tiền 85.000.000 đồng (Tám mươi lăm triệu đồng). Số tiền trên ông Phạm H2 và bà Lê Thị H1 là đại diện hợp pháp cho bị hại nhận.
Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về phần án phí, về trách nhiệm dân sự đối với người bị hại Lê Văn T và Lê Văn D, tuyên xử lý vật chứng và quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật
Ngày 15/5/2017 và ngày 19/5/2017, bị cáo Lê K và người giám hộ cho bị cáo là bà Lê Thị E kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 18/5/2017, người đại diện hợp pháp của người bị hại Phạm Quốc H, bà Lê Thị H1 kháng cáo đề nghị tăng hình phạt cho bị cáo và tăng mức bồi thường thiệt hại về tinh thần cho gia đình bà là 100.000.000đ (tăng thêm 34.000.000đ với yêu cầu và thỏa thuận trước đây là 66.000.000đ).
Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay:
Bị cáo Lê K và người giám hộ cho bị cáo là bà Lê Thị E vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Người đại diện hợp pháp của người bị hại Phạm Quốc H, bà Lê Thị H1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị tăng hình phạt cho bị cáo và tăng mức bồi thường thiệt hại về tinh thần.
Luật sư Bùi Anh N cho rằng nguyên nhân bị cáo có hành vi phạm tội là do lỗi nghiêm trọng của những người bị hại. Bị cáo đến nhà ông D với thiện chí là trao đổi việc dạy dỗ con cháu chứ không phải đến để gây sự. Viện kiểm sát cho rằng bị cáo chửi “Tụi bây ngu như bò” nên người bị hại mới có hành vi xô đẩy, đánh bị cáo là không đúng vì không ai là người làm chứng nghe thấy bị cáo chửi như vậy. Hơn nữa, Phạm Quốc H là người không liên quan đến việc chửi nhau lại có hành vi xô, đánh, đạp ngã bị cáo và hành vi này diễn ra liên tiếp, quyết liệt nhất trong các bị hại. Do đó, người bị hại cũng có một phần lỗi. Tại phiên toà hôm nay, gia đình bị cáo xuất trình Biên lai nộp số tiền 20.000.000 đồng và còn chấp nhận bồi thường thêm 20.000.000 đồng tiền tổn thất về tinh thần; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ thêm hình phạt cho bị cáo.
Luật sư Nguyễn S cho rằng qua thực tế cho thấy bị cáo không có bệnh tâm thần, chỉ khi nào uống rượu bị cáo mới có biểu hiện không bình thường. Đề nghị Hội đồng xét xử tăng mức bồi thường và tăng hình phạt đối với bị cáo.
Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các qui định về tố tụng hình sự.
Về nội dung: Đối với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra thì mức hình phạt cho bị cáo cả 2 tội 6 năm tù là phù hợp. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, người giám hộ cho bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về phần hình phạt.
Về bồi thường thiệt hại: Đề nghị Hội đồng xét xử sửa Bản án sơ thẩm, ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo và người giám hộ của bị cáo bồi thường thêm cho người bị hại số tiền 20.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và các Luật sư, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về trách nhiệm hình sự:
Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Lê K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như kết luận điều tra, cáo trạng của Viện kiểm sát và Bản án sơ thẩm đã nêu. Do đó, có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 19h00 ngày 08/11/2016 bị cáo đến nhà ông Lê Văn D, sau khi bị Lê Văn T và Phạm Quốc H đuổi đánh bị thương tích theo kết quả giám định là 10% nên khi quay lại tìm dép phát hiện vỏ chai thủy tinh, bị cáo nhặt đập và cầm phần cổ chai đứng trước cổng ngõ nhà ông D la ré, chửi bới. Lúc này, Phạm Quốc H từ trong sân nhà ông D nhảy qua hàng rào, xông đến xô xát và đạp Lê K ngã. Thấy vậy, Lê Văn T cũng ra mở cổng xông đến đánh thì bị Lê K đuổi và đâm gây thương tích 17 %. Ông D nghe ồn ào chạy ra can ngăn, xô đẩy thì bị Lê K dùng vỏ chai đâm gây thương tích 21 %. Cùng thời điểm, Lê Văn N thấy cha ruột (Lê K) bị H đạp ngã nên chạy đến thì bị H dùng chân đạp vào người làm N và H đều bị ngã; N đứng dậy thì vợ (Nguyễn Thị Hoàng V) đến kéo về nhà. Lúc này, Hà đứng dậy ở tư thế mặt quay về phía N, lưng quay về phía nhà ông D, vừa đi lui vừa chỉ tay về phía N chửi thì bị Lê K dùng tay trái ôm H từ phía sau, tay phải dùng cổ chai thủy tinh đâm vào bụng, vào cổ và gây ra cái chết đối với Phạm Quốc H trên đường đưa đến Bệnh viện.
Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng nhân thân không tốt; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nhận tội, tỏ rõ sự ăn năn hối cải; đã tác động gia đình khắc phục một phần thiệt hại; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại Phạm Quốc H và Lê Văn T gây ra; có cha ruột ông Lê C được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất, cha mẹ ruột được Nhà nước công nhận Gia đình có công với Nước. Xét bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, đ, p, n khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 và điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, nên có cơ sở áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt.
Toà án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 06 năm tù là phù hợp với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, mặc dù bị cáo và người giám hộ cho bị cáo đã xuất trình và nộp cho Hội đồng xét xử Biên lai thu tiền số 000009 ngày 02/8/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam bồi thường thêm cho gia đình người bị hại với số tiền là 20.000.000 đồng và tự nguyện bồi thường thêm 20.000.000 đồng về khoản tổn thất tinh thần ngoài số tiền bồi thường mà Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định. Tuy nhiên, căn cứ vào hành vi và hậu quả của bị cáo gây ra làm chết một người và gây thương tích hai người (Lê Văn D 21%, Lê Văn T 17%) nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo và người giám hộ bị cáo; đồng thời cũng không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp người bị hại về phần hình phạt.
Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm về phần hình phạt.
[2]. Về trách nhiệm bồi thường dân dự:
Đối với yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại Phạm Quốc H về phần tăng tiền bồi thường tổn thất tinh thần là 100.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy trong vụ án này cũng có một phần lỗi của người bị hại nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo tăng mức bồi thường của đại diện pháp hợp pháp người bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy cần căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248, khoản 3 Điều 249 của Bộ luật Tố tụng hình sự sửa Bản án sơ thẩm về phần dân sự, ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo và người giám hộ cho bị cáo bồi thường thêm cho người bị hại 20.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền bị cáo phải bồi thường cho người bị hại là: 145.000.000 đồng. Đã bồi thường 60.000.000 đồng, còn phải tiếp tục bồi thường 85.000.000 đồng.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo và người giám hộ cho bị cáo khôngđược chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, điểm b khoản 2 Điều 248, khoản 3 Điều 249 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Áp dụng khoản 2 Điều 93; khoản 2 Điều 104; điểm b, p, đ, n khoản 1, khoản2 Điều 46; Điều 47; Điều 33; Điều 44; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 1999 và điểm X khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 42 của Bộ luật hình sự; Điều 590, 591 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị Quyết 336/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê K, người giám hộ của bị cáo và kháng cáo đại diện hợp pháp người bị hại giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HS–ST ngày 05/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam về phần quyết định hình phạt.
Tuyên bố bị cáo Lê K phạm tội “Giết người” và tội “Cố ý gậy thương tích”.
Xử phạt: Bị cáo Lê K 05 (Năm) năm tù, về tội “Giết người” và 01 (Một) năm tù, về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp buộc bị cáo Lê K phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 06 (Sáu) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (ngày 09/11/2015).
2. Về trách nhiệm dân sự:
Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Lê K và người giám hộ cho bị cáo bồithường thêm cho người bị hại số tiền 20.000.000 đồng.
Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HS–ST ngày 05/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam về phần dân sự.
Buộc bị cáo Lê K và người giám hộ cho bị cáo có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tính mạng cho đại diện hợp pháp của người bị hại Phạm Quốc H, tổng cộng số tiền là 145.000.000 đồng; bị cáo đã bồi thường 60.000.000 đồng; còn phải tiếp tục bồi thường 85.000.000 đồng (Tám mươi lăm triệu đồng). Số tiền trên ông Phạm H2 và bà Lê Thị H1 là đại diện hợp pháp cho người bị hại nhận.
3. Về án phí: Bị cáo Lê K, phải chịu 300.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Tổng cộng: 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng).
4. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 188/2017/HS-PT ngày 08/08/2017 về tội giết người và cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 188/2017/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về