Bản án 187/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN 

BẢN ÁN 187/2020/HS-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 181/2020/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 251/2020/QĐXXST-HS ngày 25/11/2020 đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Xuân L (Nhí) - Sinh năm 1992 tại Bình Thuận - Nơi ĐKHKTT: khu phố 3, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở: Khu phố 6, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động biển; Cha: ông Huỳnh Văn H, sinh năm: 1968; Mẹ: bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1967; Vợ con: chưa có; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không;

2. Lê Đ1 - Sinh năm 1992 - tại Bình Thuận - Nơi ĐKHKTT: khu phố 5, phường B, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở: khu phố 6, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 0/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Cha: ông Lê H, sinh năm: 1968; Mẹ: bà Trần Thị M, sinh năm 1965; Vợ con: chưa có; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không;

3. Đinh Văn Đ2 - Sinh năm: 1999 - tại Bình Thuận - Nơi ĐKHKTT: khu phố 6, phường B, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Cha: ông Đinh Văn P, sinh năm: 1972; Mẹ: bà Lê Thị T, sinh năm 1974; Vợ con: chưa có; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không;

Bị cáo Đinh Văn Đ2 hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

4. Nguyễn Ngọc H - Sinh năm 1995 tại Bình Thuận - Nơi ĐKHKTT: khu phố 2, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Chỗ ở: khu phố 3, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Cha: ông Nguyễn U, sinh năm: 1972; Mẹ: bà Lê Thị H, sinh năm 1971; Có vợ (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không Bị cáo Nguyễn Ngọc H hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ ngày 26/02/2020, Nguyễn Ngọc H, Đinh Văn Đ2 và Huỳnh Xuân L đang ngồi nói chuyện trước nhà của bà ngoại H thì L nảy sinh ý định sử dụng ma túy nên đã rủ H và Đ2 cùng góp tiền đi mua ma túy về sử dụng, H và Đ2 đồng ý và góp mỗi người 100.000 đồng đưa cho L. Khi đó, L thấy Lê Đ1 đang đứng gần đó nên rủ thêm Đ1 góp tiền mua ma túy đá về sử dụng thì Đ1 đồng ý và đưa cho L 100.000đ. Sau đó, L nói chờ L một chút để L đi hỏi mua ma túy. Khoảng 10 phút sau thì L quay lại và nói đã tìm được người bán mua túy nên giờ đi mua và kêu Đ1 đi cùng. Cả 02 đi tới cuối đường Đặng Dung thuộc khu phố 3, phường P thì L kêu Đ1 đứng đợi còn L đi thêm một đoạn nữa thì gặp một người thanh niên (không rõ nhân thân) bịt khẩu trang đi tới chỗ của L. Lúc này L đưa cho người này 400.000 đồng và nhận từ người thanh niên này 01 gói ma túy đá đựng trong bịch nylon không màu, một đầu có khóa kéo. Sau khi mua được ma túy đá, L và Đ1 quay lại chỗ của H và Đ2 đang đợi và nói cho H và Đ2 biết đã mua được ma túy đá. Sau đó cả 04 người đi tới bãi đất trống gần đó thuộc khu phố 3, phường P để sử dụng ma túy. Lúc này, L nhặt được một hộp nhựa nhỏ gần đó nên đã nhặt và bỏ số ma túy còn lại vào trong hộp để ở dưới đất ngay khu vực cả 4 cùng ngồi và sử dụng ma túy. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi đang sử dụng ma túy thì bị Đội cảnh sát điều tra về tội phạm về ma túy Công an thành phố P phối hợp cùng Công an phường P và Phòng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (PC06) Công an tỉnh Bình Thuận phát hiện, kiểm tra. Lúc này, do sợ quá nên L đã nhanh chóng cầm hộp nhựa đựng ma túy ném ra bãi đất trống gần đó. Sau đó, lực lượng Công an tìm thấy hộp nhựa đựng ma túy đá cách nhóm của L 2 đang đứng khoảng 02 mét nên đã tiến hành lập biên bản và đưa L, Đ1, Đ2 và H về trụ sở để làm việc. Lực lượng Công an thu giữ các vật chứng sau:

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) hộp nhựa nhỏ màu trắng, có nắp đậy, bên trong có chứa 01 gói nylon không màu có khóa nhựa một đầu, kích thước (4 x 7) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng dạng rắn, thu giữ dưới mặt đất cách chỗ L đứng khoảng 02 mét. (ký hiệu M khi giám định) - 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế (01 chai nhựa, 01 ống thủy tinh, 01 ống hút bằng nhựa, thu giữ tại vị trí nhóm của L đang đứng. (bút lục số 38).

Tại kết luận giám định số 187/KLGĐ-PC09, ngày 05/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,5475 gam là Methamphetamine. Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định:

01 gói nylon và 0,4029 gam Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 187, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu Đ2 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Hiện các mẫu vật còn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 187 có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu Đ2 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 hộp nhựa màu trắng, có nắp đậy.

Về xử lý vật chứng:

Đối với các vật chứng gồm: Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã ra quyết định chuyển các vật chứng nêu trên đến Chi cục thi hành án thành phố P, số11 ngày 26/10/2020 của Chi cục thi hành án P.

Tại bản cáo trạng số 182/CT-VKS ngày 22 tháng 10 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố các bị cáo Huỳnh Xuân L, Lê Đ1, Đinh Văn Đ2, Nguyễn Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với Huỳnh Xuân L, Lê Đ1, Đinh Văn Đ2, Nguyễn Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đề nghị hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Xuân L từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Lê Đ1 từ 12 tháng đến 18 tháng tù Xử phạt bị cáo Đinh Văn Đ2 từ 12 tháng đến 18 tháng tù Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H từ 12 tháng đến 18 tháng tù Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong số 187, của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế.

+ 01 hộp nhựa màu trắng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 11 ngày 26/10/2020, của chi cục thi hành án dân sự thành phố P).

Các bị cáo xác định cáo trạng truy tố là không oan sai, các bị cáo không tranh luận gì, thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát. Đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì các bị cáo ăn năn hối hận về hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ để buộc tội bị cáo:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 26/02/2020, Huỳnh Xuân L rủ Nguyễn Ngọc H, Lê Đ1 và Đinh Văn Đ2 góp tiền mua ma túy về sử dụng thì H, Đ1 và Đ2 đồng ý và đưa cho L mỗi người 100.000 đồng, L góp 100.000 đồng, tổng cộng 400.000 đồng. Sau đó, L đi mua ma túy về cùng H, Đ1 và Đ2 sử dụng tại khu phố 3, phường P, thành phố Phan Thiết thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố P phối hợp với Công an phường P phát hiện thu giữ 0,5475 gam Methamphetamine là số ma túy L đi mua về.

nh vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy; bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Do vậy, Cáo trạng số 182/2020/CT-VKS ngày 22/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi: Xét các bị cáo Huỳnh Xuân L, Lê Đ1, Đinh Văn Đ2 và Nguyễn Ngọc H biết Methamphetamine là ma túy nằm trong danh mục nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm tàng trữ trái phép, vì hậu quả nguy hại của nó đối với sức khỏe con người và trật tự trị an xã hội nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi này không những xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước về chất ma túy, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó cần thiết phải xử lý bằng biện pháp Hình sự để răng đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

Đối với bị cáo L là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo khác và trực tiếp đi mua ma túy để cho các bị cáo sử dụng, L đóng vai trò tích cực so với các bị cáo khác.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo. Do đó cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong số 187, của phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bình Thuận.

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế .

+ 01 hộp nhựa màu trắng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 11 ngày 26/10/2020, của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P).

Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Các bị cáo Huỳnh Xuân L, Lê Đ1, Đinh Văn Đ2, Nguyễn Ngọc H phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Xuân L 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Lê Đ1 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Đinh Văn Đ2 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong số 187, của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế .

+ 01 hộp nhựa màu trắng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 11 ngày 26/10/2020, của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P).

* Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH4 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Huỳnh Xuân L, Lê Đ1, Đinh Văn Đ2, Nguyễn Ngọc H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của các bị cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (08/12/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 187/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:187/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về