Bản án 187/2019/HNGĐ-ST ngày 18/12/2019 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 187/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/12/2019 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 18 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 492/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 218/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị B, sinh năm 1982 Địa chỉ: ấp HĐ, xã ĐH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Anh Trương Văn X, sinh năm 1982 Địa chỉ: ấp HĐ, xã ĐH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị B và anh X có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/10/2019, lời khai trong quá trình tố tụng, cũng như lời trình bày tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Đặng Thị B và bị đơn anh Trương Văn X cùng thống nhất trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh chị đi đến hôn nhân do quen biết, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới hỏi theo phong tục tại địa phương vào năm 2002, nhưng đến nay anh chị vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị B trình bày: Trong quá trình chung sống giữa chị và anh X thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cự cãi với nhau, đời sống chung vợ chồng không hạnh phúc, hiện vợ chồng đã sống ly thân với nhau, nay chị nhận thấy vợ chồng không thể nào tiếp tục chung sống với nhau được nữa, nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trương Văn X.

Nguyên nhân ly hôn theo anh Trương Văn X trình bày: Trong quá trình chung sống giữa anh và chị B cũng có phát sinh mâu thuẫn, cự cãi qua lại với nhau, anh cũng đã nhiều lần năn nỉ chị B rút đơn yêu cầu ly hôn lại nhưng chị B không đồng ý, hiện vợ chồng đã sống ly thân với nhau, nay vợ chị B yêu cầu ly hôn anh cũng đồng ý vì cố níu kéo cũng không mang lại hạnh phúc.

Về quan hệ con chung: Chị Đặng Thị B và anh Trương Văn X thống nhất xác định anh chị chung sống có với nhau được 02 người con chung tên Trương Diễm M, sinh ngày 01/11/2003 và Trương Diễm N, sinh ngày 13/10/2012, hiện cháu M đã có chồng ra sống riêng nên khi ly hôn anh chị không đặt ra yêu cầu xem xét giải quyết, còn cháu N có nguyện vọng sống với ai thì người đó có trách nhiệm nuôi dưỡng, anh chị không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đặng Thị B và anh Trương Văn X cùng thống nhất xác định trong thời gian chung sống anh chị không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ anh chị, khi ly hôn anh chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Tại phiên tòa sơ thẩm chị B xác định chị vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với anh X, chị xác định không còn tài liệu, chứng cứ để cung cấp thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của các đương sự là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Chị B và anh X chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị B và anh X.

Về con chung: Do cháu Diễm M hiện đã có gia đình riêng nên không xem xét giải quyết, còn cháu Diễm N hiện sống với chị B và có nguyện vọng được sống với chị B khi ly hôn, nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Diễm N cho chị B tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp, về cấp dưỡng nuôi con: do chị B và anh X không dặt ra yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Do chị B và anh X không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình thì chị B phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị B có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh X. Anh X có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

[2] Về nội dung vụ án: Chị B và anh X chung sống với nhau vào năm 2002, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, đến nay thì anh chị đã có con chung, nhưng vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy việc không đi đăng ký kết hôn giữa chị B và anh X là đã vi phạm khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…” Do đó theo quy định của pháp luật thì hôn nhân giữa chị B và anh X không có giá trị pháp lý, không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay chị B xin ly hôn với anh X thì Hội đồng xét xử không giải quyết cho chị B và anh X ly hôn với nhau, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị B và anh X là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Từ lúc vợ chồng chị B và anh X ly thân với nhau thì người con chung tên Trương Diễm N, sinh ngày 13/10/2012 là do chị B trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị B vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, mặc khác cháu N có nguyện vọng được sống với mẹ là chị B khi cha mẹ cháu ly hôn, tại phiên tòa hôm nay chị B và anh X thống nhất thỏa thuận giao cháu Diễm N cho chị B nuôi dưỡng. Do đó Hội đồng xét xử quyết định giao người con chung tên Trương Diễm N, sinh ngày 13/10/2012 cho chị B được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp. Đối với người con chung tên Trương Diễm M, sinh ngày 01/11/2003, đến thời điểm xét xử vụ án cháu M vẫn chưa đủ 18 tuổi, tuy nhiên hiện cháu M đã có chồng, có nguyện vọng được sống với chồng và gia đình chồng, xét thấy cháu M đã có gia đình riêng và có cuộc sống ổn định do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đặng Thị B và anh Trương Văn X thống nhất xác định trong thời gian chung sống anh chị không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ anh chị, khi ly hôn anh chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị B phải chịu theo quy định của pháp luật. Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Đặng Thị B và Trương Văn X là vợ chồng.

2/. Về con chung: Giao người con chung tên Trương Diễm N, sinh ngày 13/10/2012 cho chị Đặng Thị B tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Trương Văn X có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Chị Đặng Thị B và anh Trương Văn X không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Trương Văn X.

3/. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đặng Thị B và anh Trương Văn X thống nhất xác định trong thời gian chung sống anh chị không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ anh chị, khi ly hôn anh chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Đặng Thị B phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004044 ngày 02 tháng 12 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐH.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho Chị Đặng Thị B và anh Trương Văn X biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 187/2019/HNGĐ-ST ngày 18/12/2019 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

Số hiệu:187/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:18/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về