TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 187/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 09 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 151/2019/TLST-HNGĐ ngày 24/6/2019, về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 26/8/2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh; Bùi Văn B, sinh năm 1982
Địa chỉ: Thôn Sơn, xã TH, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An
Có mặt tại phiên tòa
2. Bị đơn: Chị; Nguyễn Thị V, sinh năm 1996
Địa chỉ: Thôn Hạ, xã TH, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa, nguyên đơn anh Bùi Văn B, trình bày như sau:
- Về hôn nhân: Anh Bùi Văn B kết hôn với chị Nguyễn Thị V vào ngày 13/7/2017 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã TH, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn anh Bùi Văn B đi làm ăn ở Quảng Ninh, còn vợ thì ở cùng bà nội ở thôn Sơn, xã TH, huyện Thanh Chương. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tình cảm bình thường đến tháng 12/2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp nhau, không thông cảm cho nhau, bất đồng quan điểm sống, đặc biệt trong công việc chăm sóc con cái mỗi người mỗi ý. Vợ chồng mâu thuẫn cũng đã được nội ngoại khuyên bảo, song không có kết quả, ra tết thì chị Nguyễn Thị V bồng con bỏ về bên ngoại và sống ly thân từ đó đến nay, tháng 5/2019 anh Bùi Văn B đi làm và bồng con về bên nội chơi, thì chị Nguyễn Thị V bảo anh nuôi con luôn. Nay anh Bùi Văn B xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, nguyện vọng xin được ly hôn chị Nguyễn Thị V.
- Về trách nhiệm nuôi con: Vợ chồng có 01 con chung tên là Bùi Gia K, sinh ngày 10/02/2018. Ly hôn nguyện vọng của anh là được nuôi con và không yêu cầu vợ cấp dưỡng nuôi con, vì hiện tại vợ về bên ngoại không có nhà cữa.
- Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập chị Nguyễn Thị V đến Tòa án để làm việc công khai chứng cứ và hòa giải, song chị Nguyễn Thị V đều vắng mặt không có lý do, cho nên không thể tiến hành phiên công khai chứng và hòa giải được.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về mặt thủ tục tố tụng, tại phiên tòa bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vẫn vắng mặt, cho nên đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn. Còn về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử cho anh Bùi Văn B được ly hôn chị Nguyễn Thị V; Về con: Giao cháu Bùi Gia K cho anh Bùi Văn B trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con cho chị Nguyễn Thị V; về tài sản không không có yêu cầu nên không xem xét; anh Bùi Văn B phải chịu án phí ly hôn theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập nhiều lần để công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như việc xét xử, song chị Nguyễn Thị V đều nhiều lần vắng mặt, nên Tòa án không thể công khai chứng cứ và hòa giải, tại phiên tòa hôm nay chị Nguyễn Thị V đã được tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét hợp lệ, song vẫn vắng mặt tại phiên tòa, cho nên Tòa án vẫn xét xử bình thường theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Cuộc hôn nhân giữa anh Bùi Văn B và chị Nguyễn Thị V được xác lập trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 13/7/2017 tại UBND xã TH, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sinh sống và làm ăn tại xã TH, huyện Thanh Chương. Tình cảm vợ chồng sau khi cưới bình thường, đến khoảng tháng 12/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp nhau, dẫn tới vợ chồng mâu thuẫn. Sau khi mâu thuẫn thì chị Nguyễn Thị V về bên nhà ngoại, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Tòa án đã triệu tập nhiều lần để công khai chứng cứ và hòa giải, song chị Nguyễn Thị V vắng mặt, còn anh Bùi Văn B thì nhất quyết xin ly hôn, tại phiên tòa hôm nay, anh Bùi Văn B tiếp tục khẳng định tình cảm vợ chồng không còn nữa, nguyện vọng muốn được ly hôn. Điều đó chứng tỏ tình trạng vợ chồng đã thực sự trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, việc xin ly hôn của anh Bùi Văn B, là hoàn toàn phù hợp với Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận cho anh Bùi Văn B được ly hôn chị Nguyễn Thị V.
[3] Về trách nhiệm nuôi con: Hai người có một con chung tên là Bùi Gia Khiêm, từ khi ly thân đến nay, anh Bùi Văn B là người trực tiếp nuôi dưỡng. Cho nên cần giao con chung cho anh Bùi Văn B trực tiếp nuôi dưỡng và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho chị Nguyễn Thị V, là hoàn toàn phù hợp với Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về chia tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết về phần tài sản.
[5] Về án phí: Anh Bùi Văn B phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên ;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 51; 56; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về hôn nhân: Cho anh Bùi Văn B được ly hôn chị Nguyễn Thị V.
2. Về trách nhiệm nuôi con: Giao cháu Bùi Gia Khiêm, sinh ngày 10/02/2018 cho anh Bùi Văn B trực tiếp nuôi dưỡng.
Tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con cho chị Nguyễn Thị V.
Chị Nguyễn Thị V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về chia tài sản chung: Tòa án không xem xét.
4. Về án phí: Anh Bùi Văn B phải chịu: 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí xin ly hôn.
Anh Bùi Văn B, được trừ đi 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí anh đã nộp theo biên lai số 0006623 ngày 24/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án được thực hiện theo quy định các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết công khai.
Bản án 187/2019/HNGĐ-ST ngày 09/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 187/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về