TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 186/2021/HSST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 145/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 164/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: LÊ NGUYỄN KIỀU H (tên gọi khác: Không); sinh ngày 06/3/2002, tại tỉnh: Gia Lai; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú xã ID, huyện ĐC, tỉnh Gia Lai; nơi tạm trú: LD, phường ET, thành phố B, Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ học vấn: 12/12; con ông: Lê Thanh H1 – sinh năm 1970 và con bà: Nguyễn Thị Kiều V – sinh năm 1979; Bị cáo chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 19/3/2021 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)
* Người chứng kiến:
- Bà Trần Kim N - sinh năm 1995; địa chỉ: Tdp x, phường KX, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 10/2020, Lê Nguyễn Kiều H đến thuê phòng trọ số x tại địa chỉ số PHC, phường KX, thành phố B để sinh sống và theo học tại trường đại học TN.
Vào tối ngày 15/01/2021, Lê Nguyễn Kiều H cùng bạn là Võ Thị Phương D đến quan bar Li chơi và gặp đối tượng tên D1, C là bạn của D. Tại đây, H có sử dụng ma túy Khay có sẵn trên bàn cùng D, C, D1, sau đó C đưa cho H 02 mảnh thuốc lắc nhưng H không sử dụng mà mang về phòng trọ số x địa chỉ PHC, thành phố B, Đắk Lắk và bỏ vào túi xách của H.
Vào tối ngày 16/01/2021, C nhắn tin rủ H đến quán bar Li chơi thì H đồng ý và rủ thêm một người bạn đến chơi cùng. Đến quán bar H lại sử dụng ma túy Khay cùng C, C đưa cho H 02 mảnh thuốc lắc, H cũng không sử dụng mà mang về phòng trọ.
Vào tối ngày 17/01/2021, H đi một mình đến quán chơi, sử dụng ma túy Khay với C và được C đưa cho 01 mảnh thuốc lắc. H nhìn thấy trên đĩa còn 01 mảnh thuốc lắc nên H đã lấy và cất 02 mảnh thuốc lắc mang về phòng trọ của H cất trong túi xách cùng với 4 mảnh thuốc lắc trước đó.
Khoảng 11 giờ ngày 18/01/2021, H đang ở phòng trọ thì bị phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Đắk Lắk phối hợp với Công an phường KX tiến hành kiểm tra phát hiện bắt quả tang Lê Nguyễn Kiều H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong túi xách của H 04 mảnh viên nén màu hồng và 02 mảnh viên nén màu xanh.
Tại bản Kết luận định giá số 121/GĐMT-PC09 ngày 26/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:
- 04 nửa viên nén màu hồng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,5020 gam, loại MDMA. Mẫu vật còn lại sau giám định:0,4882 gam.
- 02 nửa viên nén màu xanh được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,3536 gam, loại MDMA. Mẫu vật còn lại sau giám định:0,3382 gam.
Đối với đối tượng tên C là người đã đưa ma túy cho H, quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra chưa xác minh được nhân thân lai lịch của C nên đã tách hành vi của C ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.
Đối với bà Trần Kim N là chủ phòng trọ tại PHC, thành phố B, Đắk Lắk, bà N không biết việc bị cáo tàng trữ ma túy nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu hồng, kèm sim số 0353248267 của bị cáo, đối với chiếc giỏ xách của bị cáo sử dụng cất giấu ma túy, quá trình điều tra bị cáo đã làm mất nên không thu giữ được.
Tại bản cáo trạng số 180/CT-VKS ngày 27/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Lê Nguyễn Kiều H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Nguyễn Kiều H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo Lê Nguyễn Kiều H và giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Nguyễn Kiều H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lê Nguyễn Kiều H mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù - Về xử lý vật chứng:
+ Đối với mẫu nửa viên nén màu hồng có khối lượng 0,4882 gam ma túy, mẫu nửa viên nén màu xanh có khối lượng 0,3382 gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định được niêm phong trong phong bì số 121/GĐMT-PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án nên đề nghị tịch thu tiêu hủy
+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu hồng, kèm sim số 035324267 là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho bị cáo.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, bị cáo không bào chữa, tranh luận gì, mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nH dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, tuân thủ đầy đủ theo quy định của thủ tục tố tụng về thu thập tài liệu chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, người chứng kiến không ai có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và hình phạt: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai mà bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Vào khoảng 10 giờ 50 phút ngày 18/01/2021, tại phòng trọ số x, địa chỉ: PHC, phường KX, thành phố B, Đắk Lắk, Lê Nguyễn Kiều H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,8556 gam ma túy, loại MDMA để sử dụng. Hành vi của bị cáo Lê Nguyễn Kiều H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c. Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lê Nguyễn Kiều H là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo biết được tác hại của ma túy đối với sức khỏe của con người, bị cáo nhận thức được rằng các chất ma túy do nhà nước độc quyền quản lý. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến quy định nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện.
Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cần áp dụng khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.
Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định có như vậy mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.
[3] Đối với đối tượng tên C là người đã đưa ma túy cho bị cáo H, quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra chưa xác minh được nhân thân lai lịch của C nên đã tách hành vi của C ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau là phù hợp.
[4] Về vật chứng của vụ án:
+ Đối với mẫu nửa viên nén màu hồng có khối lượng 0,4882 gam ma túy, mẫu nửa viên nén màu xanh có khối lượng 0,3382 gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định được niêm phong trong phong bì số 121/GĐMT-PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.
+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu hồng, kèm sim số 035324267 là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 249 Bộ luật hình sự; Điều 260, Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;
[1] Tuyên bố: Bị cáo Lê Nguyễn Kiều H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
[2] Về điều luật áp dụng và hình phạt:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Lê Nguyễn Kiều H 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.
[3] Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy mẫu nửa viên nén màu hồng có khối lượng 0,4882 gam ma túy, mẫu nửa viên nén màu xanh có khối lượng 0,3382 gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định được niêm phong trong phong bì số 121/GĐMT-PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.
+ Trả lại cho bị cáo Lê Nguyễn Kiều H 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu hồng, kèm sim số 035324267 là tài sản của bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đặc điểm cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/6/2021, của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk)
[4] Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lê Nguyễn Kiều H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo:
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 186/2021/HSST ngày 23/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 186/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về